BÀI ĐỌC I: Est 14, 1. 3-5. 12-14
Trong những ngày ấy, nữ hoàng Esther kinh hoàng vì lâm nguy, nên tìm nương tựa nơi Chúa. Bà nài xin Chúa là Thiên Chúa Israel rằng: “Lạy Chúa con, chỉ mình Chúa là Vua chúng con, xin cứu giúp con đang sống cô độc, ngoài Chúa không có ai khác giúp đỡ con. Con đang lâm cơn nguy biến. Lạy Chúa, con nghe cha con nói rằng Chúa ưu đãi Israel hơn mọi dân tộc, ưu đãi cha ông chúng con hơn bậc tiền bối của các ngài, đã nhận các ngài làm phần cơ nghiệp muôn đời và đã thực thi lời hứa với các ngài. “Lạy Chúa, xin hãy nhớ (đến chúng con) và hãy tỏ mình ra cho chúng con trong cơn gian truân của chúng con. Lạy Chúa là Vua các thần minh và mọi bậc quyền bính, xin ban cho con lòng tin tưởng. Xin đặt trong miệng con những lời khôn khéo trước mặt sư tử, xin Chúa đổi lòng sư tử để nó ghét kẻ thù của chúng con, để kẻ thù ấy và những ai đồng loã với hắn sẽ phải chết. Nhưng phần chúng con, thì xin Chúa ra tay giải thoát chúng con và phù trợ con, vì lạy Chúa, ngoài Chúa là Ðấng thông suốt mọi sự, không ai giúp đỡ con”.
PHÚC ÂM: Mt 7, 7-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người!
“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Ðấy là điều mà Lề luật và các tiên tri dạy”.
Suy Niệm 1: CON VẪN TRÔNG CẬY CHÚA, LÒNG CON TIN TƯỞNG NƠI NGÀI…
Nữ hoàng Esther lâm cảnh nguy nan khốn đốn. Bà đặt niềm trông cậy nơi Thiên Chúa. Bà tha thiết kêu cầu Chúa độ trì. Lòng trông cậy của bà đặt nền trên niềm tin và kinh nghiệm cá nhân, nhưng cũng dựa vào truyền thống của các thế hệ cha ông trong lịch sử nữa. “Lạy Chúa, con nghe cha con nói rằng Chúa ưu đãi Israel hơn mọi dân tộc, ưu đãi cha ông chúng con hơn bậc tiền bối của các ngài, đã nhận các ngài làm phần cơ nghiệp muôn đời và đã thực thi lời hứa với các ngài.”
Ta thấy đó, không có di sản nào quí giá bằng di sản đức tin, đức cậy, đức mến truyền lại cho đời sau. Chúng ta biết ơn tiền nhân vì di sản tuyệt hảo này nhận từ các ngài. Và ta có trách nhiệm trau chuốt đức tin, cậy, mến của mình để chuyển thông cho con cháu – ý thức rằng điều này đặc biệt thách đố trong một xã hội và thế giới ngày càng bị xâm lấn bởi trào lưu duy vật và vô thần thực tiễn như thời của chúng ta hiện nay.
Để củng cố đức cậy, tức niềm hy vọng của chúng ta (càng thời sự khi ta đang ở trong Năm Thánh Hy Vọng!), Chúa Giêsu khẳng định “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ thì cửa sẽ mở cho!”… Cần dừng lại, ngẫm nghĩ, để hiểu rõ và xác tín lời bảo đảm này của Chúa Giêsu. Nhưng nếu có ai còn lăn tăn nghi ngờ, thì hãy nghe Chúa nói tiếp, trong cùng ngữ cảnh này: “Nếu anh em, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha anh em, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Ngài!”…
Bạn nghĩ đi, Thiên Chúa vừa tốt lành vô cùng, vừa quyền năng và khôn ngoan vô cùng, và đó cũng là vị Thiên Chúa tha thiết khuyến khích chúng ta là con cái hãy cầu xin Ngài, thì có thể nào mà lời cầu xin của chúng ta trở thành vô ích được, phải không?
Vấn đề đáng lưu ý là cũng trong ngữ cảnh khuyến khích cầu xin Chúa này, lại có một cái ‘đuôi’ chèn vào đây: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta như thế!”… Nghĩa là cuối cùng, tương quan với tha nhân là điều không tách rời khỏi tương quan với Chúa. Chúng ta có Cha trên trời hết sức tốt lành với mình, song Ngài cũng kêu gọi chúng ta tử tế với anh chị em xung quanh đời sống chúng ta – khi đó, lòng trông cậy của ta đặt nơi Ngài chắc chắn hữu hiệu.
Lm. Giuse lê Công Đức, PSS.
……………………………………….
Suy Niệm 2: GÕ CỬA LÒNG CHÚA KHI CẦN ĐẾN NGÀI
Trong kinh nghiệm sống, ai trong chúng ta cũng đã một lần xin ai điều gì đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng nhận được điều chúng ta xin. Có khi chúng ta còn bị la rầy hoặc phàn nàn về những điều chúng ta xin. Lời Chúa ngày hôm nay nói đến việc kêu xin Người, và tất cả những ai kêu xin Người thì nhận được. Có thật như thế không? Đối diện với câu hỏi này, nhiều người trong chúng ta trả lời không chần chừ rằng: Điều đó không có thật. Không phải lúc nào chúng ta cũng nhận được điều chúng ta xin, đôi khi còn ngược lại [ví dụ xin cho người thân khỏi bệnh, không phải chết, nhưng người thân lại chết]. Như vậy, Chúa Giêsu muốn nói gì khi Ngài nói: “cứ xin thì sẽ được” (Mt 7:7)?
Bài đọc 1 tường thuật cho chúng ta câu chuyện của một người đến xin Đức Chúa và Đức Chúa đã nhận lời và ban cho bà điều bà cầu xin. Đó là câu chuyện của hoàng hậu Étte. Bà đến với Đức Chúa và trải nỗi lòng của mình cho Đức Chúa để xin Ngài cứu dân Israel khỏi tai hoạ diệt vong vì sự ghen ghét của Haman (x. Et chương 6-7). Hình ảnh của hoàng hậu Étte hôm nay là mẫu gương cho những ai cảm thấy cô đơn không còn ai bên cạnh cứu giúp, ngoại trừ Đức Chúa (x. Et 4:17l). Chúng ta có thể nói đây là mẫu cầu nguyện cầu xin tuyệt hảo nhất. Chúng ta cùng nhau phân tích cấu trúc của lời cầu nguyện này để rút ra những điều giúp chúng ta thăng tiến trong đời sống cầu nguyện. Tuy nhiên, điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc hoàng hậu Étte không “xin cho mình,” mà xin cho dân. Điều này nói lên ý nghĩa của cầu nguyện là tìm ơn lành cho người khác chứ không cho riêng mình. Nói cách khác, cầu nguyện là không đóng kín trong chính mình, nhưng đi ra khỏi chính mình và đi vào thế giới của anh chị em của mình, để biết được những gì họ đang cần và đến xin, đến tìm và đến gõ vào cửa lòng của Thiên Chúa cho họ. Cấu trúc của lời cầu nguyện cầu xin của hoàng hậu Étte có bốn yếu tố sau:
Thứ nhất, nhận thức Thiên Chúa là ai và mình là ai trước mặt Ngài. Hoàng hậu Étte đến với Chúa và kêu lên rằng: “Lạy Chúa của con, lạy Vua chúng con, Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Này con đang liều mạng, xin đến cứu giúp con. Con cô đơn, chẳng còn ai cứu giúp, ngoại trừ Ngài” (Et 17:17l). Điều quan trọng đầu tiên trong cầu nguyện chính là: ý thức được mình là ai trước mặt Chúa. Trong các cuộc đối thoại hằng ngày, cách thức xưng hô, ngôn ngữ sử dụng và thái độ đối thoại tuỳ thuộc vào căn tính của người chúng ta đang đối thoại là ai: khi nói chuyện với một người có địa vị trong xã hội hoặc Giáo Hội, thì cách thức xưng hô, ngôn ngữ sử dụng và thái độ khi nói chuyện của chúng ta sẽ khác với khi nói chuyện với một người bạn đồng trang lứa. Khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ đối thoại với một người có địa vị trong xã hội hoặc Giáo Hội, cũng không chỉ là một người bạn, nhưng là Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự. Vì vậy, cách xưng hô, ngôn ngữ sử dụng và thái độ của chúng ta phải tôn kính nhưng thân thiện.
Thứ hai, nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện. Hoàng hậu Étte đã nhớ lại những kỳ công của Thiên Chúa đã làm cho dân Israel như sau: “Lạy Chúa, trong chi tộc của cha ông, từ khi lọt lòng mẹ, con từng được nghe biết là chính Ngài đã chọn Israel giữa muôn ngàn dân tộc, đã tuyển chọn cha ông chúng con giữa mọi bậc tiền bối của các ngài để làm thành gia nghiệp mãi mãi thuộc về Ngài. Ngài thực hiện cho cha ông chúng con mọi điều Ngài đã hứa” (Et 17:17m). Việc nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện không nhằm mục đích “lấy lòng” hoặc “khen Thiên Chúa,” nhưng là để tăng thêm niềm tin cho chúng ta, vì khi nhớ lại những kỳ công Chúa đã thực hiện, giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Ngài luôn hướng dẫn lịch sử của thế giới và của từng người trong chúng ta. Ngài luôn trung thành với lời hứa của Ngài là giải thoát chúng ta khỏi tay kẻ thù, nhất là kẻ thù của sự chết và tội lỗi. Nhìn lại lịch sử đời mình, chúng ta không khỏi không kinh ngạc về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bàn tay Ngài dẫn chúng ta qua nhiều khó khăn thử thách trong cuộc sống. Nhiều khi chúng ta tưởng chừng như không thể tiếp bước, nhưng ơn Chúa luôn tuôn tràn trên chúng ta, và chúng ta tiếp tục bước đi trong niềm tin yêu và hy vọng. Như vậy, một trong những yếu tố cần thiết trong cầu nguyện là “nhớ lại những kỳ công Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của chúng ta.”
Thứ ba, nói với Chúa điều mình muốn kêu xin Ngài. Hoàng hậu Étte trải lòng mình ra với Chúa để xin Ngài ban cho những điều bà cần trong hoàn cảnh bà đang gặp phải: “Lạy Chúa, ngày chúng con gặp gian truân cùng khốn, xin nhớ đến chúng con mà chứng tỏ quyền năng của Ngài. Lạy Vua các thần minh, Đấng thống trị mọi kẻ cầm quyền, xin ban cho con lòng dũng cảm, và dạy con biết nói lời êm tai khi phải ra trước mặt loài sư tử. Xin đổi lòng con sư tử ấy để nó căm thù kẻ chống lại chúng con, khiến cho hắn và quân đồng loã phải tiêu diệt hoàn toàn” (Et 17:17r-17s). Chúng ta thấy đây cũng là ví dụ cụ thể của việc cầu nguyện “không nhiều lời” như Chúa Giêsu đã khuyến cáo các môn đệ. Hoàng hậu Étte trình bày cách khẩn thiết điều mình thật sự cần để đối diện với khó khăn bà đang gặp phải. Bà không xin hơn những gì bà cần. Bà chỉ xin ba điều cần thiết: hai điều cho bà là “lòng dũng cảm” và “biết nói lời êm tai” và một điều cho “người khác” là sự thay đổi cõi lòng [từ thù ghét đến yêu thương]. Trong ba điều hoàng hậu Étte xin, chúng ta cần xin “biết nói lời êm tai.” Nhiều khi chúng ta xin lòng dũng cảm để “chống lại” người khác hoặc xin Chúa biến đổi người khác [còn chính mình thì không thay đổi]. Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng “biết nói lời êm tai” [lời tế nhị hoà nhã], thì có lẽ các mối tương quan của chúng ta không bị sứt mẻ. Hãy xin cho “biết nói lời êm tai” trong mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, nhận thức sự bất lực của mình và tin cậy vào Chúa. Hoàng hậu Étte nhận ra rằng bà không còn nơi đâu để nương tựa và chỉ một mình Đức Chúa mới có thể cứu dân, nên bà liền tìm đến nương ẩn bên Ngài: “Thần dân Ngài, xin Ngài giải thoát. Con cô đơn, xin đến cứu giúp con. Lạy Chúa, ngoài Ngài ra, con đâu còn ai nữa!” (Et 17:17t). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng rơi vào tình trạng “cô đơn” [đúng hơn là “cô thế cô thân”], không ai đứng về phía mình, không ai hiểu mình như hoàng hậu Étte. Chúng ta hãy học nơi hoàng hậu Étte, chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới tìm được sự chở che và niềm vui, vì dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì Ta không bao giờ bỏ rơi con (x. Tv 27:10; Is 49:15; Ge 31:20).
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục đề tài cầu xin của bài đọc 1. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm ba phần: phần một nói đến việc Chúa Giêsu bảo đảm các môn đệ của mình về việc Thiên Chúa sẽ ban cho họ những gì họ xin; trong phần hai Chúa Giêsu giải thích về lời bảo đảm của Ngài; và phần ba là nguyên tắc vàng mà Chúa Giêsu đưa ra làm tiêu chuẩn cho việc hành xử của các môn đệ khi người khác đến xin, đến tìm và đến gõ vào cửa nhà [và nhất là cửa trái tim] của chúng ta. Tuy nhiên, chi tiết quan trọng mà chúng ta phải lưu ý là cả ba công việc “xin, tìm và gõ” hàm ý nói đến việc cầu nguyện. Về việc xin và tìm, trước đó Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Ngài là phải tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước, còn những thứ khác sẽ ban cho sau. Đây cũng chính là điều chúng ta xin trong Kinh Lạy Cha trong bài Tin Mừng ngày hôm thứ ba vừa rồi (Mt 6:11-13). Còn về việc gõ thì chúng ta tìm thấy trong bài đọc 1 hôm nay trong hình ảnh của hoàng hậu Étte, người đến gõ cửa lòng Thiên Chúa để tìm nơi nương ẩn. Về phần mình, chúng ta xin gì, tìm gì và gõ gì khi chúng ta cầu nguyện?
Chúa Giêsu bảo đảm các môn đệ rằng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7:7-8). Như chúng ta đã trình bày ở trên và nhất là trong lời Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, chúng ta biết mình phải xin gì khi đến với Ngài. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta xin nhưng chúng ta không được. Lời của Thánh Giacôbê sau đây giúp chúng ta xem lại điều chúng ta xin: Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:2-3). Hơn nữa, mẫu gương cầu xin Chúa Cha [trong khi đau khổ] của Chúa Giêsu luôn là kiểu mẫu tuyệt vời nhất cho mỗi người chúng ta: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39). Cuối cùng, chỉ có một điều chúng ta cần phải xin, đó là: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
Sau khi bảo đảm các môn đệ là những gì họ xin, tìm và gõ sẽ được đáp lại, Chúa Giêsu giải thích cho họ lời bảo đảm của Ngài bằng cách dùng một hình ảnh cụ thể trong đời sống thường ngày. Phần giải thích này gồm hai ý: ý thứ nhất nói đến điều hiển nhiên trong cuộc sống, đó là, nếu là người bình thường, thì chúng ta không cho cái mà người khác không xin, hay đúng hơn là chúng ta không cho cái mà người khác không cần: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” Như vậy, Thiên Chúa cũng chỉ ban cho chúng ta những điều chúng ta cần. Điều này phần nào giải thích việc nhiều khi chúng ta không nhận được điều chúng ta xin, vì những điều chúng ta xin không phải là điều cần thiết để thoả mãn “toàn bộ” con người của chúng ta về đời này và đời sau, nhưng chỉ thoả mãn một khía cạnh của đời sống chúng ta. Điều này giúp chúng ta hiểu ý thứ hai của phần giải thích: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7:9-11). Nếu chúng ta là những người tội lỗi mà còn biết phân biệt điều gì tốt để cho và điều gì không tốt để tránh khi người khác xin chúng ta, thì huống gì là Thiên Chúa, Đấng là thánh thiện, lại không ban những của tốt lành cho chúng ta khi chúng ta kêu xin Người sao?
Cuối cùng, Chúa Giêsu đưa ra thước vàng làm tiêu chuẩn cho thái độ của chúng ta trong tương quan với người khác, nhất là khi họ đến xin, đến tìm, và đến gõ vào cửa lòng của chúng ta: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Cách cụ thể, khi chúng ta đến với một ai đó để xin, thì chúng ta muốn họ cho; để tìm thì chúng ta muốn được gặp; và để gõ thì chúng ta muốn họ mở cho chúng ta. Nếu chúng ta muốn họ làm như thế với chúng ta, thì chúng ta cũng phải cho khi người khác xin mình, đừng ích kỷ nhưng quảng đại; chúng ta phải gặp khi họ đến tìm chúng ta, đừng tránh né nhưng đón nhận; và chúng ta phải mở lòng khi người khác đến gõ, đừng đóng kín nhưng cởi mở.
Lm. Anthony, SDB.
………………………………………….
Suy Niệm 3: Chúa bảo ta cầu nguyện
- Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu xin là một hình thức cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa, là nói lên với Người, như với người Cha tâm tình yêu mến và tin tưởng (Mt 6,7-13). Cầu xin với chủ đích như thế, nguyên nó là được nhận rồi. Điều gì khác như xin theo nhu cầu mình muốn, trở thành phụ thuộc, người con sẽ để tùy ý muốn và sự quan phòng của người Cha. Mục đích cầu nguyện như vậy, nên ở đây Đức Giêsu chỉ vẽ về tinh thần phải có khi cầu nguyện : tin tưởng, cậy trông và bác ái.
- Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha và người con trong gia đình để nói lên tình nghĩa đậm đà giữa Thiên Chúa và con người. Bình thường con cái đói thì xin cha bánh ăn, và bình thường người cha thỏa mãn nhu cầu của con cái, chứ chẳng có người cha nào con cái xin cá lại cho rắn, xin trứng lại cho bọ cạp.Vậy một người cha người mẹ trần gian mà còn đối xử như vậy với con cái thì huống chi là Thiên Chúa, là Đấng tốt lành gấp ngàn vạn lần cha mẹ trần gian. Cho nên, điều mà Chúa muốn nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là Chúa muốn nói đến mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài là mối tình phụ tử, cha con.
Trong gia đình con cái có thể đến với cha mẹ bất cứ lúc nào để trình bầy những nhu cầu của chúng, chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể đến với Chúa bất cứ lúc nào, để trình bầy nỗi lòng của chúng ta với Ngài.
- Theo Đức Giêsu, trong khi cầu nguyện, chúng ta cần phải có ba thái độ sau đây :
a) Tin tưởng : Đức Giêsu đã dạy :”Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Còn lời nào có sức khuyến khích chúng ta cầu nguyện hơn những lời Đức Giêsu. Thiên Chúa là cha yêu thương đối với tất cả con cái Ngài. Sở dĩ chúng ta không cầu nguyện vì chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Tin mà chưa cầu nguyện là chưa tin thật.
Tác giả Đường Hy vọng đã nhận định :”Con ngạc nhiên vì nhiều người mất ơn gọi, mất đức tin và phản bội Giáo hội ư ? Trong bao nhiêu lý do,có một lý do chính, đó là họ đã bỏ cầu nguyện từ lâu rồi”.
b) Cậy trông : Cầu nguyện thì phải trông cậy. Quả vậy, hiệu quả của lời cầu xin không do công lao của con người, nhưng do lòng nhân hậu và do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong thực tế, nhiều khi tha thiết xin mãi mà không được như mình cầu mong. Tại sao ? Vì chúng ta cầu xin theo cách nhìn của loài người chứ không phải theo cách nhìn của Thiên Chúa. Ngài biết chắc chắn điều chúng ta xin không thực sự lợi ích và cần thiết cho phần rỗi của ta, Vì thế, hãy kiên trì cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh và đón nhận mọi sự theo thánh ý Chúa. Vì thế, lời cầu nguyện mẫu mực là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu :”Lạy Cha, xin Cha cất chén đắng này xa con; nhưng xin làm theo Thánh Ý Cha chứ không theo ý con”.
c) Bác ái : Để lời cầu xin được Thiên Chúa chấp nhận, Ngài đòi chúng ta phải có đức bác ái với mọi người. Và đây là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta theo :
– Chúa Giêsu dạy :”Mọi điều anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em hãy làm cho mọi người” (Mt 7,12).
– Đức Khổng Tử khuyên :”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” : điều ngươi không muốn người ta làm cho mình, thì đừng làm cho người khác.
– Người Hy lạp và Rôma cũng vậy. Nicoles, vua Hy lạp đã truyền cho quần thần :”Đừng làm cho người khác điều khiến cho ngươi tức tối, như ngươi đã kinh nghiệm lúc rơi vào tay họ”.
– Còn hoàng đế Rôma là Severus đã truyền khắc câu châm ngôn của phái Khắc kỷ vào tường cung điện để luôn nhớ mà suy nghĩ :”Điều ngươi không muốn người ta làm cho mình, đừng làm cho bất cứ ai”.
- Truyện : Lá thư của cậu Beppo Sala.
Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới sáu đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh đứa thứ bảy. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ. Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay. Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết :”Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle”.
Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã ba ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy có ghi rõ “Người nhận : Beppo Sala, Arcorle. Người gửi : Rovingo”.
Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên cậu bảo nhân viên bưu điện trả về người gửi. Nhưng không có địa chỉ người gửi nên cậu bé đành mở thùng ra coi. Trong thùng toàn là quân áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa. Thì ra một người nào đó tên Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay Chúa gửi quà cho em của cậu.
Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ (Pastor Paterno).
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt