BÀI ĐỌC I: Lv 19, 1-2. 11-18
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Các ngươi đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt kẻ khác, đừng lấy danh Ta mà thề dối, và đừng xúc phạm danh Thiên Chúa các ngươi. Ta là Chúa. Các ngươi đừng nhục mạ kẻ khác và đừng hà hiếp họ. Ðừng giam tiền công lại cho đến ngày mai. Ðừng nguyền rủa người điếc, đừng đặt trước kẻ mù vật gì có thể làm cho nó vấp ngã; nhưng các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Ta là Chúa. Ðừng làm điều bất công, cũng đừng xét đoán bất công. Ðừng thiên tư kẻ nghèo, cũng đừng nể mặt người quyền thế. Hãy cứ công minh mà xét đoán kẻ khác. Ðừng lăng mạ, cũng đừng gièm pha kẻ khác. Ðừng mưu sát ai. Ta là Chúa. Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa”.
PHÚC ÂM: Mt 25, 31-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.
Suy Niệm 1: THẤT BẠI DUY NHẤT TRONG ĐỜI LÀ KHÔNG NÊN THÁNH
“Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi”… Tiếng gọi này vang vọng xuyên suốt Thánh Kinh. Hãy nên thánh… hãy sống hoàn hảo… hãy sống công chính… hãy nhân từ… hãy thương xót…! Lý do là vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, Cha chúng ta, là Đấng Thánh, là Đấng thương xót vô cùng!
Nhiều khi do kinh nghiệm thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, chúng ta nản lòng và nghi ngờ cả tiếng gọi nên thánh mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nhưng tiếng gọi này là sự thật, và luôn luôn hiệu lực, dù ta nghi ngờ hay phủ nhận. “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh!”
Vả chăng, nên thánh dù không dễ nhưng cũng đâu quá khó. Ai nghi ngờ thì chỉ cần đọc lại Tông huấn Gaudete et exsultate về tiếng gọi nên thánh hôm nay của Đức giáo hoàng Phanxicô, sẽ thấy nên thánh là ‘trở nên thánh hơn’, ai cũng làm được, dù xuất phát điểm ở đâu đi nữa. Thư Do thái nói về một “đám mây chứng nhân”, nghĩa là các thánh đông đảo lắm, đông hơn ta tưởng nhiều. Đức Phanxicô thì nói về “các thánh ở nhà sát vách chúng ta”, các thánh là “mẹ, bà ngoại chúng ta”… gần gũi lắm. Đức thánh cha cũng nói về sự thánh thiện nằm trong các việc nhỏ nhặt hàng ngày, trong đó chúng ta ra khỏi mình và quan tâm đến người khác. Nên thánh là ‘nên thánh hơn’, xét trong cả hành trình. Vì thế, các thánh cũng đầy giới hạn, cũng vấp ngã và đứng lên đi tiếp… và đâu phải nghĩ gì/ nói gì/ làm gì cũng đúng! Điều quan trọng là kiên nhẫn NÊN THÁNH HƠN, ngày này qua ngày khác…
Có lẽ tuyên bố mạnh mẽ và ấn tượng nhất trong Tông huấn nói trên là một tuyên bố mà Đức thánh cha mượn của Léon Bloy: “Bi kịch thảm hại DUY NHẤT trong đời sống, đó là không nên thánh!” Bạn hãy nghe cho rõ, không phải là “bi kịch thảm hại nhất”, mà là “bi kịch thảm hại duy nhất” nhé! Nghĩa là, nếu bạn ‘thất bại’ về mọi thứ khác trong đời nhưng bạn nên thánh, thì bạn thực sự không thất bại gì cả. Trái lại, nếu bạn thành đạt đủ thứ trong đời, mà không nên thánh, thì mọi thành đạt ấy đều vô nghĩa.
Nhưng nên thánh bằng cách nào? Chúa Giêsu dạy ta con đường ‘thương xót như Chúa Cha’, và Người tự đồng hoá với các anh chị em nghèo hèn khốn khổ xung quanh đời ta. Thương xót các anh chị em ấy là thương chính Chúa!
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
……………………………………….
Suy Niệm 2: LÚC ĐỜI NGÃ BÓNG, CHÚNG TA SẼ BỊ XÉT XỬ TRÊN TÌNH YÊU
Ai trong chúng ta cũng muốn sống thánh thiện hay đúng hơn là muốn nên thánh. Và chúng ta thường thắc mắc và tự hỏi: Thánh thiện là gì? Chúng ta thường quan niệm thánh thiện là không phạm tội và sự thánh thiện chỉ dành cho một số ít người “được tuyển chọn.” Tuy nhiên, thánh thiện không phải là “không phạm tội” vì ai trong chúng ta cũng mang trong mình thân phận yếu đuối mỏng manh. Thánh thiện là sự ăn năn sám hối không ngừng.
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta về đề tài thánh thiện và cách thức để trở nên thánh thiện. Trong bài đọc 1, “Đức Chúa phán với ông Môsê rằng: ‘Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh’” (Lv 19:1-2). Chúng ta tìm thấy trong câu này điều mà chúng ta phải luôn ý thức: thánh thiện là cho hết mọi người. Đây là mệnh lệnh của Đức Chúa. Ngài muốn tất cả mọi người nên thánh chứ không chỉ một số ít người. Để sống thánh thiện, bài đọc 1 đưa ra danh sách những điều “không được phép làm.”
Điểm đầu tiên chúng ta lưu ý là điệp khúc “Ta là Đức Chúa” (Lv 19:12,14,16,18). Điệp khúc này được lặp lại sau mỗi lần kết thúc một chuỗi những hành động chúng ta không được phép làm. Điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là: Động lực để ta tránh những điều làm chúng ta không đạt đến sự thánh thiện không phải là vì “sợ phạm tội,” nhưng vì “muốn được nên giống Đức Chúa, là Đấng Thánh” (x. Lv 19:2). Điều đáng buồn là nhiều người Kitô hữu [ngay cả những người được thánh hiến] xem con đường nên thánh, nhất là đời sống luân lý, mà Thiên Chúa đòi hỏi [hay Giáo Hội dạy] là gánh nặng của những điều “không được làm.” Họ quên rằng, những điều “không được làm” chỉ là hệ quả của chọn lựa nên thánh như Đức Chúa là Đấng Thánh. Giống như một người nam khi chọn một người nữ làm vợ của mình, thì hệ quả là người nam đó không còn được phép làm những điều lỗi phạm đến tình yêu dành cho vợ của mình. Việc không được phép làm những điều lỗi phạm đến đời sống hôn nhân chỉ là hệ quả của “chọn lựa người kia làm vợ.” Nhìn từ khía cạnh này, những việc “không được làm” mà sách Lêvi trình bày cho chúng ta chỉ là hệ quả của “chọn lựa sống thánh” như Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta có thể nhóm “những điều không được phép làm” trong bài đọc 1 thành bốn nhóm [được chia cách bởi điệp khúc “Ta là Đức Chúa”]:
Nhóm thứ nhất trình bày những điều chúng ta không được phép làm trong tương quan với những người thân, những người “đồng quê hương” của mình: “Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là các ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19:11-12). Trong nhóm này, tác giả nhấn mạnh đến việc “sống thành thật” [không nói dối, không lừa gạt, không thề gian] với những người thân của chúng ta. Sống thật với những người “biết chúng ta” là một thách đố lớn! Hãy sống thật như Chúa Giêsu mời gọi: “Có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm lời đặt chuyện là do ma quỷ” (Mt 5:37).
Nhóm thứ hai mở rộng ra đến đồng loại: “Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi” (Lv 19:13-14). Nhóm này nhấn mạnh đến đức công bình và bác ái, tức là, chúng ta phải trả cho người khác những gì thuộc về họ và nhất là không tìm cách để hãm hại người khác. Thật vậy, khi gặp những người đồng loại, không cùng tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, sở thích với mình, chúng ta thường có thái độ “bất công,” hay đúng hơn là không đối xử với họ như họ đáng được đối xử. Nhóm thứ hai này mời gọi chúng ta hãy đối xử với hết mọi người như nhau không phân biệt, vì tất cả mọi người là con cùng một Cha ở trên trời và tất cả là anh chị em của nhau.
Nhóm thứ ba nói đến những điều mà những người có trách nhiệm trên người khác phải lưu ý: “Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết” (Lv 19:15-16). Những người có quyền thường có xu hướng đối xử thiên vị: kiêng nể và nhẹ tay với những người thân và có địa vị và vu khống cho những người cô thế cô thân. Những người này được mời gọi sống liêm khiết và không thiên vị. Họ phải có một tình yêu chan hoà dành cho mọi người như nhau.
Nhóm thứ tư là bản tóm tắt của tất cả điều được trình bày trên: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19:17-18). Câu tóm tắt được tìm thấy trong câu cuối cùng: câu này là đỉnh cao của luật yêu thương trong Cựu Ước. Chi tiết làm chúng ta không ngạc nhiên ở đây là: sau một danh sách dài của những “mệnh lệnh tiêu cực” (không được làm) là một “mệnh lệnh tích cực” (điều phải làm), đó là hãy yêu người khác như chính mình. Điều này đưa chúng ta về với điều chúng ta đã trình bày ở trên: tất cả những điều “không được phép làm” chỉ là hệ quả của chọn lựa sống thánh của chúng ta. Trong trường hợp này, danh sách không được làm trên chỉ là hệ quả của chọn lựa “yêu đồng loại như chính mình.” Như vậy, đừng để ý đến những điều không được phép làm, những điều phải từ bỏ, nhưng hãy tìm niềm vui nơi chọn lựa “sống thánh, sống yêu thương, sống tha thứ” của mình, thì những điều không được phép làm kia sẽ trở thành nhẹ nhàng và êm ái.
Về phần mình, Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những việc làm rất cụ thể để nên thánh. Theo Ngài, chính những công việc tốt và đơn giản hằng ngày mà chúng ta làm cho người khác là tiêu chuẩn để đo lường sự thánh thiện và cũng là điều mà qua đó Thiên Chúa sẽ xét sử chúng ta vào ngày sau hết. Theo các học giả Kinh Thánh, đoạn Tin Mừng này là kiệt tác đỉnh cao và cũng là bài giảng quan trọng cuối cùng trong cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Chúng ta chỉ tìm thấy đoạn Tin Mừng này trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu. Chúng ta cũng tìm thấy trong đoạn Tin Mừng này sự tương phản giữa phúc và họa: nếu làm thì được phúc, không làm thì bị hoạ.
Những công việc nào Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện để được vào hưởng sự sống đời đời, để nên thánh? Đó là: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:35-37). Đây là sáu trong bảy công việc “thương xác” [corporeal works of mercy] mà truyền thống của Giáo Hội đề ra cho chúng ta thực hiện. Tất cả những công việc này hoàn toàn nhắm đến việc đáp ứng nhu cầu thể lý [thân xác] của người khác. Như vậy, sự thánh thiện không chỉ dành riêng cho linh hồn, mà cho cả toàn bộ con người, trong đó thân xác là một phần quan trọng. Đừng đối xử với người khác như “hồn không xác” hay đúng hơn là “thuần thiêng liêng.” Hãy đối xử với họ như những nhân vị có thân xác “sẽ được sống lại trong ngày sau hết.” Hãy chăm sóc nhu cầu sức khoẻ [thể lý] cho người khác.
Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý là việc những người công chính và những người bị chúc dữ cùng hỏi lại “Đức Vua” về những việc mình làm và không làm: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn [không cho ăn], khát mà cho uống [không cho uống]; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước [không tiếp rước]; hoặc trần truồng mà cho mặc [không cho mặc]? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu [không đến hỏi han]?” (Mt 25:37-39//44-45). Chúng ta thấy rõ ràng ở đây họ chỉ đơn giản làm việc tốt hoặc không làm việc tốt mà không ý thức rằng họ làm cho Chúa Giêsu. Đây chính là điều làm chúng ta được an ủi, nhưng cũng là điều làm chúng ta đáng phải lo sợ vì những việc tốt chúng ta làm hoặc không làm cho người khác, dù không phải vì danh Chúa Giêsu, sẽ trở thành điều để chúng ta được Đức Vua khen thưởng hay luận phạt. Hãy làm điều tốt mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người.
Điểm cuối cùng chúng ta cùng nhau suy gẫm là việc Chúa Giêsu đồng hoá chính mình với những người cần chúng ta giúp đỡ: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế [không làm như thế] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm [không làm] cho chính Ta vậy” (Mt 25:40//45). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (trong thông điệp Redemptor Hominis [“Đấng Cứu Chuộc Con Người”]) dạy chúng ta rằng: Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã đồng hoá chính mình với mỗi con người trong mọi không gian và thời gian. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta hiểu lý do tại sao Chúa Giêsu đồng hoá việc phục vụ người túng thiếu là diễn tả tình yêu dành cho Ngài. Như vậy, điều quan trọng là liệu chúng ta có nhận ra Ngài trong những người cần đến tình thương và sự giúp đở của chúng ta không?
Lm. Anthony, SDB.
…………………………………….
Suy Niệm 3: Giá trị việc lành dữ
- Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của tòa phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.
2.Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.
Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.
- Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.
- Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hòa đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận :”Lòng trắc ẩn là qui luật chính yếu của sự tồn tại con người”.
Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin Mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.
- Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng. Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết xuông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng : Đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết. Điều đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa :”Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy”(Vinh Sơn).
- Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta một chân lý tuyệt diệu : là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.
Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau : coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.
- Truyện : Tìm thấy Chúa trong tha nhân.
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi :
– Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế ?
– Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần :
– Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú : “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).
Lm Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt