DIỄN NGUYỆN GIÁNG SINH 2023
HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ ĐÀ LẠT
CHỦ ĐỀ:
SỐNG NIỀM VUI NHẬP THỂ
TRONG HIỆP THÔNG- CẦU NGUYỆN – HY VỌNG
PHẦN I: KHAI MẠC – NHẬP ĐỀ
Hát: Trời cao (2) (Trời cao hãy đổ sương xuống…)
Dẫn1:
Kính thưa cộng đoàn,
Trong những ngày này, khắp hoàn cầu dường như đang đợi chờ giây phút được cất lên bài ca “Đêm Thánh Vô Cùng” của ngày Lễ Chúa Giáng Sinh, cùng nhau sống lại Mầu nhiệm Nhập Thể, tuy đã qua đi hơn 2000 năm, nhưng dấu ấn vẫn lưu lại đến ngàn đời. Quả thật, việc giáng sinh của Con Thiên Chúa là tin vui trọng đại mà sứ thần đã loan báo: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa”(Lc 2, 10-11).
Vâng, từ thuở Thiên Chúa tạo dựng cho đến ngàn thế hệ, Ngài vẫn không ngừng hiện diện, đồng hành cùng con người trong mọi giai đoạn thăng trầm và biến cố của cuộc sống, vì Ngài đến để chúng ta được sống và được sống dồi dào. Thế nhưng, tham vọng làm chủ và ước muốn thống trị kẻ khác luôn đeo bám lòng người, khiến cho chiến tranh, dịch bệnh, đói kém, biến đổi khí hậu… xảy ra liên miên và ngày càng nghiêm trọng. Bức tranh thế giới hôm nay đang bị phân mảnh bởi bao bất ổn: cuộc chiến tranh xâm lược của Nga ở Ucraina kéo dài gần hai năm ròng rã; xung đột quân sự đẫm máu nhất 50 năm qua giữa Israel và người Palestine với con số thương vong đang gia tăng từng ngày, tình hình căng thẳng đe dọa kéo theo vòng xoáy xung đột khó có hồi kết và khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng.
(Chiếu cảnh thiên tai, chiến tranh…)
Hơn bao giờ hết, con người ngày nay khao khát được sống viên mãn trong an bình và hạnh phúc. Sự sống viên mãn ấy chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa. Người Ki-tô hữu tin rằng Thiên Chúa là nguồn cậy trông và là niềm hy vọng của họ. Do đó, trong mọi hoạn nạn, đau khổ, chúng ta chỉ biết ngước trông lên Thiên Chúa – Đấng tạo dựng và ban sự sống cho muôn loài như Thánh Giona nói: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người” (1 Ga 5, 11). Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa mở ra cho nhân loại chân trời hy vọng vào sự sống vĩnh cửu mà không có bất cứ thế lực sự dữ nào có thể lấy đi được.
Trong tâm tình hướng đến năm Thánh 2025. Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố dành năm 2024 là năm cầu nguyện để giúp các tín hữu mở rộng tâm hồn đón nhận ơn thánh của Chúa. Để từ đó, sứ điệp Ki-tô giáo sẽ được chiếu tỏa cho thế giới, thắp lại niềm hy vọng và động lực mới trong việc xây dựng một xã hội huynh đệ. Thật vậy, đời sống cầu nguyện sẽ đưa con người vào sự hiệp thông, hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau, cùng nhau sống trong niềm vui và hy vọng về một thế giới hòa bình, như lời Đức Kitô đã nói: “Ta đến để ban hòa bình cho nhân loại.” Giờ đây kính mời cộng đoàn cùng bước vào giờ diễn nguyện với chủ đề: SỐNG NIỀM VUI NHẬP THỂ TRONG HIỆP THÔNG- CẦU NGUYỆN và HY VỌNG.
PHẦN II: DIỄN NGUYỆN VỀ LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
CẢNH 1
Khung cảnh: Ba em bé thiếu nhi học sinh Giáo lý đang ngồi vẽ tranh. Sr Tiên và Sr Thủy đi ra. (Thiếu nhi 1 và 2 là nữ, Thiếu nhi 3 là bạn nam)
TN1, TN2, TN3: “Chúng con kính chào các Sr.”
(Ba bạn cùng đồng thanh chào với sự phấn khởi và kính trọng)
Sr Tiên: Chào các con, các con đang làm gì đó?
TN1: Thưa Sr, chúng con đang vẽ hình Thiên Chúa trong sách giáo lý này (giơ tay đồng cỏ non ra). Sr xem chúng con vẽ có đẹp không?
(Sr Tiên và Sr Thủy nhìn tranh của các bạn)
Sr Tiên: Ồ, các con vẽ đẹp lắm.
Sr Thủy: Các con vẽ sáng tạo ghê nè!
TN 2: Nhưng… thưa Sr, con không biết nhiều về Thiên Chúa đâu, Sr kể cho chúng con nghe đi ạ.
Sr Tiên Được rồi, được rồi vậy thì các con lại đây nào, Sr sẽ kể cho các con nghe câu chuyện về Thiên Chúa, Đấng mà các con đang vẽ, Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ này…
Chuyển cảnh
Tiếng nhạc vang vọng lại từ xa từ nhỏ đến to dần
CẢNH 2
CẢNH PHẦN TẠO DỰNG SẼ GỬI SAU – PHẦN NÀY CHỈ CÓ NHẠC VÀ TRÌNH CHIẾU, KHÔNG CÓ LỜI THOẠI.
- TẠO DỰNG (Tiền Tập Viện)
Dẫn 2: Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Ngài là căn nguyên đầu tiên và là nền tảng tối thượng của tất cả vạn vật. Nhờ Lời của Ngài muôn loài xuất hiện trong vũ trụ, có hình dạng, có sự sống và chuyển động theo trật tự tốt đẹp.
(Tiền Tập Viện)
CẢNH PHẦN TẠO DỰNG SẼ GỬI SAU – PHẦN NÀY CHỈ CÓ NHẠC VÀ TRÌNH CHIẾU, KHÔNG CÓ LỜI THOẠI.
Sau khi đã xong phần Tạo dựng
Dẫn 3: Vì phạm tội, con người đã đánh mất ân sủng, làm rạn nứt mối dây tương quan với Thiên Chúa, với chính mình và với mọi loài thụ tạo khác… Nghi ngờ, đố kỵ, hủy diệt… không ngừng xuất hiện khắp nơi. Tình yêu và sự hiệp nhất dường như vắng bóng trên mặt địa cầu. Con người loại trừ lẫn nhau, vạn vật cũng chịu liên lụy và khổ đau.
CẢNH 3
- CÂU TRUYỆN BÀ RÚT
TN 1: Thật là tội nghiệp cho loài người chúng ta, phải không Sr?
Sr Thủy: Các con à, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương loài người, cho dù loài người có phản bội đi chăng nữa, thì Ngài vẫn luôn ghé mắt trông xem, và đồng hành cùng con người trong mọi biến cố đấy! Trong suốt dòng lịch sử của Dân Thiên Chúa, Ngài đã sai các thủ lãnh này, và các tiên tri này… đến để giúp dân của Ngài.
Bây giờ Sr hỏi các con nhé: Mỗi khi cần một điều gì đó, các con sẽ làm gì?
TN 2: Dạ, con sẽ nói với bố mẹ ạ.
Sr Thủy: Đúng rồi. Dân Thiên Chúa cũng vậy, họ phải luôn kết hợp với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và yêu thương mình, qua đời sống cầu nguyện, để xin Người dẫn dắt, hướng dẫn và giải cứu họ.
Trong Cựu Ước có một mẫu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện và hy vọng. Sr đố các con biết là ai nè…?
TN 2: Thưa Sr, con không biết.
TN 1: Con cũng không biết đâu.
Sr Thủy: Đó là bà Rút.
TN 2: Thưa Sr, vậy bà Rút là ai ạ?
Sr Thủy: À, bà là người gốc dân ngoại nhưng luôn kiếm tìm Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài.
TN 3: Vậy, Sr kể cho chúng con nghe về bà Rút đi.
TN 1: Sr kể đi Sr.
TN 2: Kể đi Sr, kể cho chúng con nghe đi Sr.
Sr Thủy: Được rồi, được rồi.
Bà Rút là một người phụ nữ người Mô-áp. Đó là một xứ nhỏ ở phía đông Biển Chết với đất đai màu mỡ. Nhưng dân Mô-áp lại là một dân tôn thờ thần Kê-mốt. Họ có tục lệ hiến tế người hằng năm các con ạ, là giết chết một bé gái dâng thần Kê-mốt. Hồi đó, nạn đói trong xứ Israel đã buộc ông Ê-li-mê-léc, chồng bà Na-ô-mi, đưa vợ và hai con trai rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, để đến sinh sống tại nơi đất khách quê người là Mô-áp. Không lâu sau, bà Na-ô-mi đau đớn khôn xiết khi chồng qua đời. Và rồi, hai con trai bà là Mạc-lôn và Ki-li-ôn cũng qua đời luôn. Chỉ còn lại bà và hai nàng dâu trẻ người Mô-áp là Rút và Oóc-pa trong cảnh góa bụa.
Các con biết không? Bà Rút biết và tin vào Thiên Chúa của dân Israel qua Mạc-lôn, chồng của bà với câu nói: “Thiên Chúa dù là Đấng vô hình, nhưng Ngài luôn ở cùng con người qua các biến cố, hãy luôn vững tin vào Ngài.” Về phần bà Na-ô-mi, bà mong ngóng tin tức từ quê nhà, và quyết định trở về quê là đất Bết-lê-hem. Cô con dâu cả là Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng để ở lại đất Mô-áp, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà về Israel. Khi bà Na-ô-mi khuyên Rút ở lại với dân Mô-áp, thì Rút đã đáp lại: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin Ðức Chúa phạt con thế này và thêm thế kia nữa, nếu con lìa xa mẹ mà không phải vì cái chết!”.
Thế là sau những ngày đi bộ mệt nhọc và trắc trở cuối cùng thì bà Na-ô-mi và cô con dâu hiếu thảo là Rút, cũng về tới đất Bết-lê-hem vào đúng mùa gặt lúa mạch.
Sáng hôm đó bà Rút đi mót lúa ở một cánh đồng nọ…
(Trong khi Sr Thủy kể đoạn trên, sẽ có trình chiếu hình ảnh và video song song với lời kể)
CẢNH 4
Bà Rút đi mót lúa ở cánh đồng (có ụ lúa, vài bó lúa), 3 người phụ nữ mót lúa cùng, 2 người thợ gặt, 1 người coi thợ gặt.
Phụ nữ 1: Người Mô-áp thì không nên có mặt ở nơi đây, trên miền đất thánh thiêng này, họ chỉ làm cho mảnh đất này ra ô uế mà thôi.
Phụ nữ 2: Đúng rồi, bởi vì chúng thờ ngẫu tượng xấu xa, chúng còn hiến tế người sống làm của lễ cho thần minh nữa.
Phụ nữ 3: Bọn chúng chỉ nên ở tại quê hương của chúng mà thôi.
Rút: Này các chị, dù tôi là người dân ngoại, nhưng tôi tin vào Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, tôi tin Thiên Chúa luôn thương yêu tôi.
Phụ nữ 1: Thiên Chúa không thể nào thương một người dân ngoại như thế được, hãy ra khỏi cánh đồng này hỡi người đàn bà Mô-áp, chúng tôi không muốn nhìn thấy người đàn bà tà giáo nào ở đây. Chúng tôi sẽ đem cô ra trước các trưởng lão để xét xử.
Rút: Này chị, vì tôi góa chồng nên tôi có quyền mót lúa.
Thợ gặt 1: Phụ nữ Mô-áp hình như cũng đồi bại lắm.
Thợ gặt 2: Này anh bạn, kể xem những gì anh biết ở xứ Mô-áp đi.
Thợ gặt 1: Trong các lễ tế thì được uống thả cửa và tự do luyến ái nữa.
Thợ gặt 2: Anh biết nhiều hơn tôi quá!
Thợ gặt 1: Chủ nhân đến kìa.
Ông Bô-át đi tới
Bô-át (nói với những người thợ gặt): Xin Đức Chúa ở cùng các anh.
Thợ gặt 1, 2: Xin Đức Chúa giáng phúc cho ông.
Bô-át (nói với những người trông coi thợ gặt): Cô kia là người của ai thế?
Người coi thợ: Thưa ông, đó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã cùng với bà Na-ô-mi từ Mô-áp trở về. Cô đã nói: “Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt.” Cô ấy đã đến và ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào.
Bô-át (nói với Rút): Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc.
Rút (cúi rạp xuống đất mà lạy): Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?
Bô-át: Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới. Xin Đức Chúa trả công cho con vì những gì con đã làm! Chớ gì Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, thưởng công bội hậu cho con, Người là Đấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!
Rút: Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một nữ tỳ của ông.
Bô-át: Xin Đức Chúa ở cùng con.
Phụ nữ 2 (lẩm bẩm): Tại sao ông ấy lại có thể cư xử với một người Mô-áp tử tế đến thế!!!
Ông Bô-át đi khỏi. Rút tiếp tục mót lúa
CẢNH 5
Bà Na-ô-mi đang ngồi vá áo, bà Rút đi vào
Rút.: Thưa mẹ con mới về.
Bà Naomi: Này con, hãy kể cho mẹ nghe hôm nay con đã mót lúa ở đâu?
Rút: Con đi mót lúa ở cánh đồng của ông Bô-át. Ông ấy rất tử tế với con.
Bà Naomi: Mẹ biết Bô-át mà, nó là người như thế.
(Rút ngồi xuống với vẻ mặt buồn)
Bà Naomi: Có chuyện gì làm con suy nghĩ phải không? Mẹ thấy con có vẻ lo lắng điều gì đó.
Rút: Con đi mót lúa ở cánh đồng nhưng có mấy người không chấp nhận sự có mặt của con mẹ à, vì con là một người Mô-áp, họ kinh tởm con. Họ nói con là người đàn bà tà giáo và sẽ đem con ra trước các trưởng lão để xét xử.
Bà Naomi: Rút con ơi, con hãy luôn cầu nguyện, hãy vững tin vào Thiên Chúa, rồi mọi người sẽ chấp nhận con là một thành viên trong cộng đoàn. Rút con ơi, mẹ có một thị kiến, rồi đây nhờ con mà sẽ có một dòng dõi đông đảo, và Đấng cứu thế muôn dân mong đợi sẽ xuất hiện từ dòng tộc của chúng ta.
Rút: Con tin điều đó thưa mẹ, con tin Thiên Chúa hằng yêu thương con, con vẫn luôn cầu nguyện với Ngài. Con vẫn hy vọng Ngài sẽ giúp con, cho con được hiệp thông với mọi người trong tình yêu, mẹ ạ.
Bà Naomi: Vậy bây giờ hai mẹ con mình cùng cầu nguyện nhé.
Rút: Vâng, thưa mẹ.
Quỳ cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, Ngài biết rõ từng người chúng con, chúng con luôn trông cậy nơi Ngài, xin Ngài hãy ban thêm ơn đức tin cho chúng con, xin thêm sức cho chúng con, xin nâng đỡ chúng con là những người nghèo hèn, khốn khổ, và xin giúp chúng con vượt qua những thử thách, gian nan trong bình an của Chúa. Amen.
Hai mẹ con vừa cầu nguyện xong thì có một toán phụ nữ Dothái xông đến cùng với hai người lính.
Phụ nữ 1, 2, 3: Bà Na-ô-mi, bà Na-ô-mi???
Bà Na-ô-mi: Vâng tôi đây, có chuyện gì thế các bà?
Phụ nữ 1: Ả tà giáo đây rồi, mang cô ta đi…
Phụ nữ 2: …mang cô ta đi cho hội đồng xét xử.
Bà Rút bị mang đi, bà Na-ô-mi gục xuống cầu nguyện, sau đó đứng lên đi theo.
CẢNH 6
Bà Rút bị 2 người tố cáo, Quan tòa ngồi giữa , có lính canh 2 bên, 2 người làm chứng, bà Naomi, bà Rút, 3 người phụ nữ.
Tố cáo 1: Thưa đồng bào, người đàn bà này là một giáo sĩ của dân Mô-áp, cô ta có nhiệm vụ làm lễ tế người cho thần Kê-mốt, mục đích cô ta đến đây là tìm kiếm các bé gái để đem về tế thần.
Phụ Nữ 1, 2, 3: Thật là ghê sợ!
Quan tòa: Cô Rút, ta hỏi cô, cô có phải là một giáo sĩ không?
Rút: Dạ, phải.
(Tiếng đám đông ồ lên kinh ngạc)
Quan tòa: Cô có tham gia việc tế người không?
Rút: Thưa, có.
(Tiếng đám đông ồ lên kinh ngạc)
Quan tòa: Sự việc này xảy ra lâu rồi phải không?
Rút: Dạ, mới mấy tháng trước. (Tiếng đám đông ồ lên kinh ngạc) Nhưng tôi đã từ bỏ tất cả những thứ đó, tôi tin vào Thiên Chúa, tôi hằng cầu nguyện cùng Ngài, tôi theo mẹ Na-ô-mi đến dân tộc này, bởi tôi muốn nhận Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của tôi, dân tộc của mẹ là dân tộc của tôi.
Tố cáo 2: Cô ta nói dối, không đời nào một người ngoại đạo mà lại từ bỏ thần minh của mình mà đi theo thần khác được.
Rút: Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Ngài thương xót tôi, Ngài tha các tội tôi đã phạm, và Ngài hằng dẫn dắt tôi, cho tôi niềm hy vọng, tôi sẽ được sống bình an và hạnh phúc. Vì thế, mà tôi chọn đi theo Ngài.
Tố cáo 1: Tôi sẽ làm chứng rằng cô ta đã thờ thần ngoại giáo… Sáng sớm hôm đó chúng tôi đi ngang qua đồng ruộng của bà Na-ô-mi, thì tại đó trong ánh sáng mờ nhạt của bình minh, chúng tôi thấy góa phụ Rút ra khỏi nhà, và mang theo tượng thần bằng đá trên tay. Rồi đặt trên một gò đất và quỳ xuống thờ lạy.
Quan tòa: Tượng nào vậy?
Tố cáo 1: Là tượng thần Kê-mốt…
Tố cáo 2: … Đó là thần của xứ Mô-áp.
Quan tòa: Trời còn chưa sáng hẳn, sao anh biết đó là Kê-mốt?
Tố cáo 1: Nhờ vào ánh lửa cô ta thắp lên.
Bà Na-ô-mi: Xin phép các ông, tôi có thể nói vài lời chứ?
Quan tòa: Nói đi, bà Na-ô-mi.
Bà Na-ô-mi: Anh cũng là con cái của Israel, các anh cũng tôn thờ Đức Chúa như chúng tôi chứ?
Tố cáo 1, 2: Có
Bà Na-ô-mi: Nếu các ông thật sự có niềm tin, hãy kể tên 12 chi tộc Israel.
Tố cáo 1: (ngập ngừng) Đừng hỏi tôi như thế, không có thời gian…
Quan tòa: Góa phụ Na-ô-mi nghi ngờ ngươi không phải là dân Thiên Chúa, trả lời đi.
Tố cáo 1: Được thôi: Ruben, Benjamin, Giuđa và…(ngập ngừng.. mọi người đứng xem xì xầm to nhỏ), nhiều quá, sao nhớ nổi hết tên các chi tộc.
Rút: Còn Mười Điều Răn thì phải thuộc hết chứ, kể ra đi?
Tố cáo 1: Vậy ngươi thuộc được bao nhiêu điều răn vậy, ả tà giáo kia?
Rút: Ồ, tôi thuộc hết. Tôi sẽ rất vui nếu như anh nhắc lại được Điều Răn thứ 8? Anh nhớ chứ? Hãy nói điều răn thứ 8 dạy chúng ta điều gì?
Tố cáo 1 + 2: (không trả lời được)
Rút: Đó là “chớ làm chứng dối để chống lại anh em mình”. Có thể là trí nhớ anh kém. Mà thôi, không nhớ cũng không sao. Vậy giờ đây, các ngươi hãy tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa trước mặt mọi người, và nguyền rủa thần Kê-mốt.
Tố cáo 1 + 2: (không nói được gì)
Quan tòa: Sao hả?
Tố cáo 1 + 2: không nói được gì, và toan bỏ chạy, nhưng bị lính giữ lại
Tố cáo 1: Không bao giờ, chúng tôi không tin Thiên Chúa, thần Kê-mốt vĩ đại, thần Kê-mốt vĩ đại.
Quan tòa: Vậy đã rõ, hãy đem chúng ra khỏi đây, hỡi những kẻ làm chứng gian.
Còn Rút được gia nhập cộng đoàn và hiệp thông với mọi người vì lòng tin của con.
Lính và đám đông chạy đến lôi hai tên đó đi.
Rút ôm bà Naomi (2 mẹ con khóc) – mọi người cùng đến chúc mừng.
Một đoạn ngắn nhạc Do Thái, mọi người nhảy múa theo điệu nhạc.
CẢNH 7
TN 3: Sr ơi, bà Rút tuyệt vời quá! Đức tin và đời sống cầu nguyện của bà thật đáng thán phục.
Sr Tiên: Đúng rồi đó các con.
TN 2: Sr kể cho chúng con nghe tiếp đi ạ.
Sr Tiên: Không lâu sau đó, ông Bô-át lấy cô Rút, và nàng trở thành vợ ông. Nhờ ơn Ðức Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. Bà Na-ô-mi bế đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chính bà nuôi nấng đứa trẻ đó. Họ đặt tên cho đứa trẻ là Ô-vết. Ðó là cha của ông Gie-sê, là ông nội vua Ða-vít đó.
TN 1: Vậy hả Sr! Hay quá!
TN 2: Hay quá Sr ơi!
TN 1: Sr ơi, con thấy rằng Thiên Chúa rất yêu thương con người, Ngài luôn nhận lời và ban ơn lành cho những ai cầu khẩn Người với lòng khiêm tốn và chân thành.
Sr Thủy: Con giỏi quá!
Các con biết không, Thiên Chúa đã gầy dựng nên một dân tộc dành riêng cho Ngài, đó là dân Dothái. Tuy vậy, không phải lúc nào họ cũng đi trên con đường Tình yêu của Ngài đâu. Trong suốt dọc dài lịch sử, họ đã phản nghịch và bất tuân này, nên phải chịu cảnh nước mất nhà tan, bị đem đi lưu đày ở Babylon. Bấy giờ họ mới ăn năn hối cải về những bất tuân của mình. Và họ đã khẩn thiết cầu nguyện, xin Thiên Chúa thứ tha, và cầu mong Ngài mau ban ơn giải thoát như Lời đã hứa.
(Trong khi Sr Thủy kể đoạn trên, sẽ có trình chiếu hình ảnh và video về cảnh lưu đày)
Múa Xion (Tiền Tập)
CẢNH 8
TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA (Học viện)
Dẫn 4: Trải qua các biến cố thăng trầm, Israel đã học biết cách thức Thiên Chúa đồng hành với họ. Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của họ. Đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa đó qua chính Con yêu dấu của Ngài, là Đức Giêsu Kitô. Thời đó được bắt đầu bởi một ngày trọng đại, ngày thay đổi vận mệnh cuộc đời của một thiếu nữ Do Thái. Thiếu nữ đó tên là Maria, chị vừa đính hôn với anh Giuse thuộc dòng dõi Đavít.
(Đức Maria đi ra quỳ cầu nguyện một lát, rồi đứng lên, đi lại lấy giỏ đồ, thêu vá quần áo)
NHẠC CẢNH (Thiên Thần Truyền Tin)
Dẫn 5: Sau cuộc gặp gỡ, Maria thu xếp lên đường đi thăm chị họ là Bà Elisabet.
CẢNH 9
THĂM VIẾNG BÀ ELISABET (Học viện)
Dẫn 6: Đức Maria vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth.
Đức Maria: “Em chào chị! Phúc lành của Thiên Chúa ở cùng chị”
Bà Elisabeth: “Ôi Maria! Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và người con của em được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Em chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Em sẽ được thực hiện.”
Đức Maria: “Vậy là em sắp sinh Người Con của Thiên Chúa? Đó là công trình của Thiên Chúa, chị hãy cùng với em dâng lời tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa”.
(Đức Maria và bà Elisabeth giang hai tay, mắt hướng về trời và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa qua lời kinh Manificat)
Múa: Này linh hồn tôi (Tập viện)
Chuyển cảnh
CẢNH 10
TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIUSE (Học viện)
(Maria và Bà Elisabeth lui vào. Nhóm thôn nữ đi ra. Họ khoe nhau những tấm vải mới. Giuse xuất hiện, ngồi làm việc ở góc sân nhà)
Cô 1 : Các chị ơi, nhìn này, chồng em mới mua cho em từ một thương gia đấy!
Cô 2 : Đâu đâu ! cho chị xem với! (vuốt ve) Ừ, đẹp thật đấy! Ước gì chồng chị cũng mua tặng chị thứ quý giá như thế này. Em là … nhất rồi đấy!
Cô 3 : Nào, cho em xem với! Nghe các chị nói mà em phát mê luôn á!
Cô 1 : (Chạy lại Giuse) Này này Giuse! Maria đâu … mà cả mấy tháng rồi tôi không thấy thế…?
Cô 2 : (Giọng ton hót) Chị mới gặp Maria chiều hôm qua. Maria mới đi xa về… (tỏ ra bí mật) Mà … trông em ấy lạ lắm! cái Bụng nó… như… thế này này! (tay mô tả bụng bầu)
Cô 3: (nhìn Giuse vẻ dò xét) Vậy hả? Nhưng… hai em ấy mới chỉ đính hôn thôi mà!?
Cô 1 & cô 2: (nhìn nhau, nghi ngờ )Ấy... hay là… ưm…
(Giuse thinh lặng, tiếp tục chăm chú làm việc. Mấy cô hàng xóm vẫn xầm xì. Đột nhiên, đám lính, từ phía cộng đoàn đi lên. Nhạc trống hành quân.)
Lính 1 : Loa loa loa loa! Loa loa loa loa!
Lính 2 : (hơi chậm): Toàn dân nghe rõ/ Lệnh hoàng đế ngỏ/ Người nhỏ, người to/ Phải về quê tổ/ Kê khai dân số.
Lính 1 & 2: Loa loa loa loa! Loa loa loa loa!
(Thông báo xong, đám lính đi vào trong sân khấu)
Cô 1 : Ối dồi ôi, nhà mình đang còn bao việc. Kê với chả khai!
Cô 2 : Xem ra cái lệnh này đòi gấp đấy! Không làm ngay á thì có mà chết!
(Nhạc nền nhẹ. Các cô rời đi. Giuse quỳ xuống cầu nguyện)
Giuse: Lạy Thiên Chúa, chuyện gì xảy ra cho Maria, tại sao nàng cứ mãi im lặng? Maria là người chân thật và đạo đức lắm, con rất kính trọng nàng và không có quyền nghi ngờ nàng. (Giuse gập người xuống, cầu nguyện tha thiết) Lạy Thiên Chúa, Chúa là núi đá, là thành trì cho con trú ẩn, xin cứu giúp con. Xin Ngài chỉ cho con biết phải làm sao cho đúng thánh ý Ngài. Con phải nhắm mắt làm ngơ hay phải tố cáo nàng? Không, Chúa ơi, hay là con phải bỏ trốn nàng đến một nơi xa lạ không ai biết tới. (thinh lặng).
(Giuse tần ngần, có vẻ ưu tư, rồi lo thu xếp đồ đạc. Anh mệt mỏi, rồi ngả lưng, ngủ thiếp đi)
Thiên thần: (hiện ra) Này Giuse, ngươi đừng lo lắng buồn phiền! Hãy nhận Maria làm vợ vì người con mà nàng đang cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nàng sẽ sinh hạ một con trai và ông sẽ đặt tên là Giêsu. Chính Ngài là Đấng Cứu Thế mà muôn dân đang mong đợi.
(Thiên thần biến mất).
Giuse: (đứng lên) Ồ, thật vậy sao, thì ra đây là công việc của Thiên Chúa.
(quỳ xuống) Lạy Chúa, con nguyện đem hết sức mọn của con để làm theo thánh ý Ngài.
(Mở nhạc: Thánh Giuse-Lời Xin Vâng Lặng Lẽ (Lm. Giuse Sỹ Tùng) – cắt nhạc câu 1, 2 không có phần điệp khúc)
CẢNH 11
NGÔI HAI THIÊN CHÚA HẠ SINH (Học viện)
Khung cảnh: thành phố với những quán trọ.
Giu-se và Ma-ri-a (mang thai – sắp sinh) đi tìm nhà trọ, đang rảo bước trên đường.
Ma-ri-a: Anh Giu-se ơi, em cảm thấy mình sắp đến giờ sinh rồi!
Giu-se: Cố lên em à, đi tới phía trước có căn nhà sẽ tốt cho em và con.
Ma-ri-a: Dạ được.
Giuse gõ cửa: Cốc, cốc, cốc, …
Chủ nhà trọ 1 – mở cửa
Giu-se: Chị à, vợ tôi sắp sinh, mà chúng tôi không tìm được quán trọ, chị làm ơn giúp chúng tôi lúc khó khăn này được không?
Chủ nhà trọ 1: Quán trọ cao cấp này hết chỗ rồi, đi chỗ khác đi…đi…đi.
Giu-se: nhưng…, chị à…
Chủ quán đóng cửa – rầm.
(Ma-ri-a tựa vào vai Giu-se, cả hai cùng ngước mắt lên trời cao, và cầu nguyện)
Giu-se: Lạy Thiên Chúa Tối Cao, xin thương hài nhi và xin nhìn đến chúng con…
Ma-ri-a:… Chúng con xin phó thác trọn vẹn cho Ngài, lạy Chúa.
Giuse: Maria, cố lên em…
(Một số người đi lại, rảo bước nhanh)
Giuse: (hỏi người đi đường) Ông ơi, ông vui lòng cho chúng tôi hỏi: ở đây có nhà trọ nào không ạ?
Người đi đường: (phẩy tay và bỏ đi, nói giọng bực tức) Tôi đang bận, đi mà hỏi người khác.
Giu-se: Chị à, vợ tôi sắp sinh, mà chúng tôi không tìm được quán trọ, chị giúp chúng tôi lúc khó khăn này được chứ.
Chủ nhà trọ 2: Ối dồi ôi, rước của nợ này vào làm gì cho cuộc đời rắc rối. Hai người làm ơn đi chỗ khác.
Giuse và Ma-ri-a nhẹ nhàng bước từng bước khó nhọc nhưng tín thác vào Thiên Chúa bên Giu-se (đi vào bên trong sân khấu).
Giuse và Ma-ri-a nhẹ đi ra sân khấu lại, tới chỗ ụ rơm, Giuse lấy rơm làm chỗ cho Maria. Hài Nhi Giêsu chào đời. (Tiếng em bé khóc)
Ma-ri-a bồng ẵm Hài nhi Giê-su bên Thánh Giu-se.
PHẦN III: CA MỪNG GIÁNG SINH (Bắc Thanh)
Tiết mục của các em nội trú Bắc Thanh
Sau khi các em Bắc Thanh diễn xong tất cả các em tiến ra sân khấu, hướng về Chúa Giê-su – Hoàng Tử Bình An để thờ lạy, tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Trogn lúc đó thì đọc Lời dẫn 7.
BẾ MẠC
Dẫn 7: Kính thưa cộng đoàn, giờ phút này, trong chúng ta dâng trào những cảm xúc khác nhau. Đặc biệt, điều đọng lại trong tâm hồn là niềm vui hân hoan và bình an, vì Thiên Chúa đã sinh ra cho chúng ta. Ước mong lời mời gọi trở nên sứ giả Tin Mừng, chứng nhân của Đấng Emmanuel được khơi dậy và không ngừng cháy lửa trong tâm hồn mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, mùa Giáng Sinh là mùa của tình yêu, mùa của trao ban và chia sẻ. Xin cho chúng con luôn biết cùng nhau sống tình hiệp thông, kiên trì cầu nguyện và hy vọng cùng nhau hướng về một thế giới hòa bình, không còn chiến tranh, và nhân loại được sống trong bình an. Amen.
Kính chúc cộng đoàn một Lễ Giáng Sinh thật sốt sắng và một mùa Giáng Sinh an lành.
HD. MTG Đà Lạt