BÀI ĐỌC I: Cv 1, 1-11
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng’ Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông. Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.
BÀI ĐỌC II: Ep 1, 17-23
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người’ xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
PHÚC ÂM: Lc 24, 46-53
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Suy niệm 1: CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
“Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng”… Đó là hình ảnh cuối cùng của Chúa Giêsu trước mắt các môn đệ, theo tường thuật của thánh Luca. Chúa Phục sinh sau những cuộc hiện ra tỏ mình cho các môn đệ đây đó trong những bối cảnh khác nhau, đã lên trời, trở về nơi xuất phát của Người (x. Lc 24,46-53)… Đây là hình ảnh chiến thắng, vinh quang, khải hoàn của người đi chinh chiến khuất phục được đối phương và trở về với ‘chiến lợi phẩm’.
Cũng thánh Luca, trong sách Công vụ Tông đồ, đã nhấn mạnh nguồn gốc và bản tính thần linh của Chúa Giêsu Phục sinh trong sự kiện ‘lên trời’ này. Thật vậy, những hình ảnh về ‘đám mây bao phủ’ và về ‘hai người áo trắng’ trong trình thuật này gợi nhớ những cuộc thần hiện được mô tả trong Cựu Ước cũng như biến cố Hiển Dung trong Tân Ước… Nói tóm, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và giờ đây biến cố ‘lên trời’ xác nhận rõ ràng thiên tính của Người (x. Cv 1,1-11)… Đây cũng là điều được chúng ta tuyên xưng qua Thánh vịnh 46 (Đáp ca): “Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang”!
Thiên Chúa muốn nói gì với chúng ta qua mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, cách riêng qua sự kiện Chúa Giêsu lên trời? Bài đọc 2, trích Thư Êpheso, trả lời cho ta câu hỏi này. “Xin cho anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo […] công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời” (x. Ep 1,17-23).
Nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi đến hưởng gia nghiệp phong phú, được kêu gọi đến cảm nghiệm quyền năng Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời! Hãy nhớ rằng chính Thiên Chúa chủ động KÊU GỌI, LÔI KÉO chúng ta lên trời và nhập cư vĩnh viễn ở đó, chứ chúng ta không phải làm hồ sơ visa rườm rà rồi hồi hộp chờ đợi, đến khi phỏng vấn thì bị gạt phăng, ‘persona non grata!’, như thường xảy ra đối với nhiều người thậm chí chỉ xin đi Mỹ dăm ngày hay vài tuần!…
“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” – Chúa Giêsu đã tuyên bố vậy. Người cũng nói rõ: “Thầy đi thì có lợi cho anh em, vì nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em”. Chúng ta nhận ra, lễ Chúa Giêsu Lên Trời nối kết chặt chẽ với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Và quà tặng Thánh Thần thật quí giá, thật cần thiết cho chúng ta biết bao! Thánh Thần là hoa quả thu hoạch được từ toàn bộ biến cố/ mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô.
Chính nhờ Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, chúng ta mới biết hướng thượng, mới biết ‘ái mộ những sự trên trời’ – và nhờ đó biết sống thêm cao thượng và bớt ti tiện nhỏ nhen…
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
………………………………..
Suy Niệm 2: LÀM CHỨNG CHO NƯỚC TRỜI QUA ĐỜI SỐNG THA THỨ
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng Lễ Chúa Thăng Thiên, hay còn gọi là Lễ Chúa về Trời [Thiên Đàng], nơi mà ai trong chúng ta cũng mong ước và cố gắng đạt đến. Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hướng lòng về Thiên Đàng, quê hương thật của chúng ta. Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sự kiện Chúa Thăng Thiên và xem Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua các bài đọc và ý nghĩa của Phụng Vụ hôm nay.
Để hiểu bài đọc 1, chúng ta cần nối kết với bài Tin Mừng hôm nay. Nói cách cụ thể, bài đọc 1 tiếp nối câu chuyện được trình thuật trong bài Tin Mừng. Chúng ta thấy chi tiết này trong câu đầu tiên của bài đọc 1: “Thưa ngài Thêôphilô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1:1-2). “Quyển thứ nhất” ám chỉ đến Tin Mừng Thánh Luca. Tin Mừng Thánh Luca kể lại cuộc đời Chúa Giêsu cho đến “ngày Người được rước lên trời,” điều được trình bày trong Tin Mừng hôm nay. Theo truyền thống, Thánh Luca là tác giả của Tin Mừng Thánh Luca và sách Công Vụ Các Tông Đồ. Trong bài đọc 1, Thánh Luca trình bày cho chúng ta những điều xảy ra “trước ngày ấy,” ngày Ngài được rước lên trời. Có hai sự kiện chính trong những ngày ấy, đó là (1) việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ để “chứng tỏ cho các ông thấy rằng Người vẫn sống sau khi chịu khổ hình” (Cv 1:3), và (2) việc hứa ban Thánh Thần cho các ông: “Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại để chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:4-5). Sự kiện thứ nhất [Chúa Giêsu vẫn sống sau khi chịu khổ hình] trở thành nội dung chính của sứ điệp Tin Mừng mà các môn đệ rao giảng cho muôn dân; còn sự kiện thứ hai nói về lời hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, Đấng sẽ đồng hành và trợ giúp các ông trong việc rao giảng Tin Mừng.
Một chi tiết trong bài đọc 1 cần chúng ta lưu ý, đó là hình ảnh Chúa Giêsu được đưa lên trời “và có đám mây quyện lấy Người.” Chi tiết này chứng tỏ việc lên trời chính là sự mạc khải của Ngài. Hình ảnh đám mây gợi cho chúng ta nhớ đến đám mây bao phủ khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Lc 3:21-22) và biến hình (Lc 9:28-36), và từ đám mây tiếng Chúa Cha phán ra. Trong Kinh Thánh, “đám mây” là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, khi chúng ta được lên trời là được Thiên Chúa “quyện lấy”. Những chi tiết tiếp theo bổ sung cho bài Tin Mừng vì chúng trình bày cách chi tiết những gì xảy ra đang khi Chúa Giêsu được cất lên trời: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:9-11). Những lời này nói cho chúng ta biết Chúa Giêsu lên trời không phải để bỏ chúng ta “mồ côi,” nhưng Ngài sẽ đến với chúng ta trong “đám mây,” trong tình yêu của Thiên Chúa. Liệu chúng ta có nhận ra Ngài khi Ngài đến với chúng ta không?
Bài đọc 2 trình bày cho chúng ta về tâm tình của Thánh Phaolô dành cho các tín hữu Êphêsô và lời cầu xin của ngài với Thiên Chúa để họ nhận ra hai điều: “đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời” (Ep 1:18-20). Thánh Phaolô cầu xin cho các tín hửu Êphêsô nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng trỗi dậy từ cõi chết và ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời là “niềm hy vọng họ đã nhận được” và “gia nghiệp vinh quang phong phú mà họ được chia sẻ cùng Dân Thánh. Với trọn tâm tình, Thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Êphêsô về Đức Kitô và Thiên Đàng. Tuy nhiên, như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trỗi dậy từ cõi chết [chết cho tội lỗi], để được đón nhận vinh quang trên trời.
Một điểm khác đáng để chúng ta suy gẫm là việc Thánh Phaolô dạy các tín hữu Êphêsô về mầu nhiệm thân mình của Đức Giêsu Kitô: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:22-23). Nhìn từ khía cạnh “nhiệm thể Đức Kitô,” chúng ta có thể nói rằng: Nếu Chúa Giêsu là Đầu và đang ở trên trời, thì thân mình Ngài là Hội Thánh cũng phải theo Ngài. Các Giáo Phụ dạy rằng: Sự kiện Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta, những chi thể của nhiệm thể Đức Kitô là Hội Thánh, quê hương thật của chúng ta là Nước Trời, vì Đầu đi đâu thì thân mình phải theo đó. Đây là thách đố lớn cho mỗi người chúng ta, những người mong ước về Thiên Đàng, nhưng không có những quyết định mạnh mẽ để vượt qua những chướng ngại cản bước trên đường về thiên đàng, đó là những thói hư, tật xấu của chúng ta. Hãy đến với Đức Kitô, Đấng sẽ làm cho chúng ta được viên mãn trong Ngài.
Tin Mừng hôm nay được trích từ đoạn kết của Tin Mừng Thánh Luca. Chúng ta có thể nhận ra ba ý tưởng chính trong đoạn trích này: (1) Chúa Giêsu nhắc lại cho các môn đệ về những gì đã xảy ra cho Ngài và đó là điều các ông phải làm chứng cho mọi người biết (x. Lc 24:46-48); (2) Chúa Giêsu hứa ban quyền năng từ trời cao để trợ giúp các môn đệ trong công việc làm chứng cho Ngài (x. Lc 24:49); (3) Chúa Giêsu được đưa lên trời và các môn đệ bắt đầu cuộc sống làm chứng cho Chúa qua niềm vui và việc tôn vinh Ngài (x. Cv 24:50-53). Chúng ta cùng nhau tìm hiểu cách chi tiết hơn ba ý tưởng trên, hầu rút ra được những điều hữu ích cho cuộc sống.
Một điều mà Chúa Giêsu đã ba lần tiên báo cho các môn đệ về chính mình: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24:46). Trong lời tiên báo này, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài không phải là Đấng Kitô đến với uy quyền để thống trị, nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Nói cách khác, Ngài phải chịu đau khổ rồi mới đến được vinh quang: qua thập giá đến vinh quang. Đây chính là điều mà các môn đệ phải “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân.” Họ không chỉ rao giảng về một Đức Kitô vinh quang, Đấng ngự trên “trời cao,” nhưng còn phải rao giảng về một Đức Kitô, Đấng đã trở nên mọi sự như mọi người, ngoại trừ tội lỗi, Đấng đã chịu đau khổ như con người, đã chết, đã phục sinh và nay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta được nhắc nhở để ý thức rằng khát mong về Thiên Đàng không làm chúng ta quên đi những đau khổ và thách đố của đời sống thực tại. Nhưng mơ ước về Thiên Đàng sẽ làm chúng ta tìm ra ý nghĩa trong những đau khổ và nước mắt của đời sống hằng ngày.
Để đem thực tại Nước Trời vào trong đời sống thường ngày, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ rao giảng về Ngài cho muôn dân và kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Chính các môn đệ là những nhân chứng về sự sám hối và sự tha thứ của Thiên Chúa. Thật vậy, không ai có thể làm chứng về sự “thay đổi” [sám hối] và cảm nghiệm cách sâu xa sự tha thứ của Chúa Giêsu cho bằng các môn đệ, những người đã chối và bỏ Ngài trong cuộc khổ nạn. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằng: Thiên Đàng hiện diện những nơi có sự sám hối và tha thứ. Nói cách cụ thể hơn, khi chúng ta thay đổi cõi lòng của mình từ ghen ghét và hận thù thành yêu thương và tha thứ, chúng ta đang biến Thiên Đàng thành hiện thực trong cuộc sống của mình và cho những người đang sống với chúng ta.
Điểm thứ hai là việc Chúa Giêsu nói về “bản hợp đồng” giữa Ngài và các môn đệ: “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Như chúng ta biết, đối với Thánh Luca, Chúa Thánh Thần có một vai trò quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Giáo Hội sơ khai. Nhiều học giả Kinh Thánh gọi Tin Mừng của Thánh Luca là “Tin Mừng về Chúa Thánh Thần.” Dù có thế nào đi nữa, sự kiện Chúa Chúa Giêsu lên trời liên kết chặt chẽ [không thể tách rời] với lời hứa ban Chúa Thánh Thần. Với những lời trên, chúng ta thấy “điều kiện” của bản hợp đồng là: Về phía Chúa Giêsu, Ngài sẽ gởi cho các môn đệ Chúa Thánh Thần; còn về phía các môn đệ, các ông phải ở lại trong thành Giêrusalem cho đến khi Chúa Thánh Thần được ban cho các ông. Chi tiết làm chúng ta lưu ý ở đây là việc “ở lại trong thành Giêrusalem,” trung tâm của Tin Mừng Thánh Luca và Công Vụ Các Tông Đồ. Điều này gợi cho chúng ta nhớ về sự kiện Chúa Giêsu ở trong Đền Thánh Giêrusalem khi Ngài lên 12 tuổi – Giêrusalem là nơi có “nhà Cha của Ngài” (x. Lc 2:49). Như vậy, để đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ [và chúng ta] phải ở lại trong “nhà Thiên Chúa,” hay đúng hơn, trong cung lòng và trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây chính là thái độ chúng ta cần có trong tuần này, để chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trong tuần tới.
Trong phần cuối, Chúa Giêsu được đưa lên trời trong khi “giơ tay chúc lành” cho các môn đệ. Hành động và thái độ của các môn đệ trước sự kiện này là bái lạy Ngài. Hai cử chỉ này tạo nên hành vi thờ phượng mà chúng ta thực hiện mỗi khi chúng ta đến với Chúa: Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta, còn chúng ta bái lạy và tôn thờ Ngài. Điều làm chúng ta ngạc nhiên ở đây là thái độ vui mừng của các môn đệ: Họ “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Thông thường, các cuộc chia tay luôn mang lại nỗi buồn và nước mắt. Còn các môn đệ thì “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ.” Tai sao họ hoan hỷ? Chi tiết này nhắc lại cho chúng ta về câu chuyện của hai môn đệ trên đường Emmau. Như chúng ta đã biết, trong Tin Mừng Thánh Gioan, hành trình của Chúa Giêsu là từ “bên ngoài Giêrusalem [Galilee] vào Giêrusalem.” Những ai đi ngược với hành trình này sẽ kết thúc trong đau thương và nước mắt. Chúng ta nhận ra điều này trong câu chuyện của người Samaria nhân hậu (x. Lc 10:25-37) và hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24-13-35). Nhưng những người đi cùng “hành trình” của Chúa Giêsu, họ sẽ có được niềm vui của ơn cứu độ, niềm vui của việc lên Nhà Chúa Ta: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi, ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122:1). Thật vậy, khi chúng ta đi trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta sẽ hoan hỷ và vui mừng dù phải đối diện với nhiều thử thách và đau buồn. Còn khi không đi theo đường lối của Ngài, chúng ta sẽ kết thúc trong buồn sầu và nhất là sẽ hư mất đời đời.
Lm. Anthony, SDB.
…………………………….
Suy Niệm 3: CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN
A. DẪN NHẬP
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của thánh Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô” lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.
Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).
Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 1,1-11
Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban cho các ông những lời dạy cuối cùng.
– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.
– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban cho.
– Ngài còn trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53
Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :
– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.
– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chứng nhân của Đức Kitô
I.ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI
- Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ
Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.
- Ý nghĩa việc lên trời
Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.
a. Một giai đoạn đã qua
Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.
Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.
b. Khởi đầu một kỷ nguyên mới
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.
Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).
II. TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
- Sứ vụ rao giảng Tin mừng
Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Truyện : Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterfly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.
Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ông ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuống, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.
- Rao giảng bằng cuộc sống
Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi. Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,
Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,
Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc
Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,
Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,
Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,
Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triều, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.
Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.
Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các môn đệ Ngài.
Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.
Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?
– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?
– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?
– Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
– Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta ?
– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi theo ông Kitô.
– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).
Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
IV. HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI
- Quê hương chúng ta ở trên trời
Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã khích lệ các Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).
Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 3,20).
Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.
- Điều kiện để về trời
Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !
Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.
Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.
Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt
………………………….
Suy Niệm 4: Tạo vật hướng thượng
Con người là loài thụ tạo sống giữa trời và đất. Đứa trẻ sơ sinh tuy có thể cử động nhưng phải nằm yên một chỗ đúng theo chiều kích bé nhỏ của thân thể. Nhưng thấm thoát thoi đưa chỉ trong vòng một thời gian ngắn mọi sự đã dần dần biến đổi. Chẳng mấy chốc đứa trẻ đã gắng sức để vươn dậy, tập nẫy, tập bò, tập vịn để chập chững bước đi và cuối cùng có thể tự mình đứng vững, …
Con người là một tạo vật hướng thượng! Thân thể của chúng ta tự để lộ phương hướng. Chúng ta đến từ bụi đất nhưng đà tăng trưởng làm chúng ta mỗi ngày một xa rời mặt đất. Tuy chúng ta sống trên mặt đất, nhưng không có gì có thể ngăn cản cảm nghĩ, ước mơ, khát vọng của chúng ta. Quê cha đất tổ chắc chắn là nơi không ai có thể quên, nhưng như thế con người vẫn chưa thoả mãn. Ngoài nơi chôn nhau cắt rốn ra, ngoài nơi chứa chấp đầy kỷ niệm của tuổi thơ ra, thế giới này còn nhiều địa danh khác, muôn màu muôn vẻ. Nhiều người đã có một tuổi thơ hạnh phúc, được hưởng những tháng ngày tươi đẹp nơi mái ấm gia đình nhưng chắc chắn đó không phải đích điểm, nơi mà hạnh phúc vĩnh cữu đang chờ đón chúng ta, sẽ xiết chặt vòng tay và không bao giờ để chúng ta vuột khỏi tầm tay nữa! Chúng ta tiến bước nhưng sẽ đi về đâu? …
Chúng ta đến từ bụi đất. Giống như cỏ cây chúng ta đấm rễ sâu vào lòng đất và từ đó phát triển, dần dần vươn tới trời cao. Hành trình của Đức Giêsu đã vạch ra con đường và chỉ chúng ta nơi mà chúng ta có thể đến. Ý nghĩa của ngày lễ Chúa Thăng Thiên đã được ghi trong Kinh Tin Kính: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha.” Còn chúng ta! Sau những tháng ngày năm chìm bẩy nổi, đầy thăng trầm của kiếp người chúng ta sẽ đi về đâu? Phải chăng có một quê hương đích thực, nơi chúng ta có thể chôn thân gửi phận mãi mãi! Ngày nay không biết bao người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất! Giông tố và chiến tranh kiến họ bị trầy da tróc vẩy, bị bật gốc rễ, phải tha phương cầu thực, … Cảnh “sống vô gia cư, chết vô địa táng” của kiếp người ngày nay không có bút nào tả xiết! Nó mang nhiều tên tuổi và sắc thái khác nhau! Hoa trái hoang dại của nó thì vô kể! Ai có thể giúp họ ra khỏi cảnh cùng đường bí lối này? Chúng ta cần một người đi trước chúng ta, dẫn đường chỉ lối. Đức Giêsu, Đấng Phục sinh, đã chỉ rõ đâu là quê hương đích thực của chúng ta. Chính Người không trực tiếp nói về biến cố thăng thiên. Người nói một cách đơn giản: “Bây giờ,con đến cùng Cha”. Hạnh phúc đích thực nơi nhà Cha – đó chính là ý nghĩa và cùng đích của kiếp người.
Mỗi người chúng ta đều khát vọng một mái ấm hạnh phúc. Những đôi bạn trẻ đều có những lý do thiết thực khi muốn rơi xa mái ấm gia đình để xây tổ uyên ương cho chính họ. Họ muốn có cơ hội để thi triển tài năng của bản thân và dần dần tư lập, có thể tự tung tự tại trong thế giới của chính mình. Bản thân tôi khi sống nơi đất khách quê người mới vỡ lẽ: Quê hương mãi không thay đổi, chỉ có một, đó là nơi mà mình chôn nhau cắt rốn. Về nhà không có nghĩa là về Việt Nam mà là qua Mỹ thăm bố mẹ. Mái nhà dành cho tôi chính là nơi bố mẹ đang ở. Mái ấm không còn bị giới hạn bởi một địa danh nhất định mà còn là một trạng thái, một cảm giác. Nói một cách khác: Mái ấm là nơi tôi cảm thấy mình hạnh phúc, được thông cảm và yêu thương. Đây cũng là đìều mà Đức Giêsu muốn ám chỉ. Quê trời đối với Người chính là cảnh xum vầy, được vui vẻ hạnh phúc nơi nhà Cha. Con đường dẫn tới quê trời chính là con đường về nhà Cha của Đức Giêsu, nơi đã được chuẫn bị cho mỗi người chúng ta. Đấng Phục sinh đã đi trước chúng ta, đã vén mở cửa trời để chúng ta hưởng chút hương vị
ngọt ngào nơi nhà Cha. Đức Giêsu về trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Người cũng hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bởi vậy ngay dưới gầm trời cũng không thiếu những mảnh vụn thiên đường: đó chính là nơi con người chung xây kiến tạo hoà bình, gặp gỡ nhau bằng ánh mắt đầy tình thương. Giống như lời của một bài hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, … Đâu ý hiệp tâm đầu, ở đấy chứa chan niềm vui.
Lm Phêrô Trần Minh Đức