spot_img
Thêm

    CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH

    BÀI ĐỌC I: Cv 15, 1-2. 22-29

    Trong những ngày ấy, có mấy người từ Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì không được cứu độ”. Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người khác thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải quyết vấn đề này. Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng toàn thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau: “Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an”.

    BÀI ĐỌC II: Kh 21, 10-14. 22-23

    Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, Phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên.

    PHÚC ÂM: Ga 14, 23-29

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin”.

    Suy Niệm 1: CHÚA PHỤC SINH SẼ RỜI ĐI, NHƯNG VẪN HIỆN DIỆN TRONG THÁNH THẦN

    Sắp tới lễ Chúa Giêsu Lên Trời, rồi tiếp theo sẽ là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống… Vì thế, hôm nay chúng ta nghe những lời Chúa Giêsu nói về việc Người ra đi, về sự bình an mà Người để lại cho các môn đệ, và lời hứa về “Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”. Bầu khí đầy bịn rịn, và chúng ta có thể cảm nhận được nỗi niềm bâng khuâng của Thầy và trò…

    Nhưng điều rõ nét hơn tất cả, đó là sự quan tâm chu đáo hết sức của Chúa Giêsu đối với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến và đừng sợ hãi… Thầy đi, rồi Thầy trở lại với anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với anh em trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì anh em tin” (x. Ga 14,23-29).

    Quả thực, cuối cùng Chúa Giêsu đã lên trời, sau khi Người chết và sống lại. Người không còn hiện diện với các môn đệ theo cách thức hữu hình bằng xương bằng thịt như trước nữa. Cảm giác hụt hẫng một chút, nhưng thực ra không có gì bất ổn cả, nếu không nói là mọi sự càng ổn hơn. Bởi có đó Thánh Thần – bởi vì đã đến thời của Thánh Thần! Đây là kinh nghiệm rất rõ của các Tông Đồ như sách Công vụ cho thấy. Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn các Tông Đồ là những môn đệ thừa sai trên mọi nẻo hành trình sứ mạng.

    Không chỉ cố vấn đối ngoại, Thánh Thần còn là nhà dàn xếp đối nội, như khi các Tông Đồ đứng trước những bất đồng quan điểm với nhau liên quan tới những vấn đề vốn cần sự thống nhất. Chẳng hạn, về vấn đề cắt bì, chúng ta đọc thấy quyết nghị được các Tông Đồ tuyên bố theo công thức sau: “THÁNH THẦN VÀ CHÚNG TÔI XÉT RẰNG không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này…” (x. Cv 15,1-2.22-29). Với sự dẫn dắt của Thánh Thần, và sự mềm mỏng lắng nghe của các môn đệ Chúa, thì tất cả đều sẽ ổn.

    Cộng đoàn môn đệ thừa sai – là Hội Thánh – chỉ thực sự ổn khi đó là một cộng đoàn nhiệt thành sứ mạng, bởi ‘Hội Thánh là sứ mạng’, như tâm tình được phản ánh qua Thánh vịnh Đáp ca: “Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (x. 66,2-3.5-6.8)…

    Hành trình sứ mạng chinh phục chư dân trên mặt đất này cho Thiên Chúa – một hành trình luôn ở trong sự hướng dẫn của Thánh Thần – sẽ đạt đến sự hoàn thành của nó ở trên trời! Đó là tình trạng ỔN chung cuộc và viên mãn. Bài đọc trích sách Khải huyền mô tả những gì thánh Gioan thấy về điều này trong thị kiến, gọi là ‘Giêrusalem trên trời’. Chói lọi vinh quang, ánh sáng huy hoàng rực rỡ của Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô! (x. Kh 21,10-14.22-23).

    Nói tóm, Chúa Giêsu là đầu và cuối, là Alpha và Ômêga. Cả ở giữa cũng là Chúa Giêsu, với sự ‘hiện diện vắng mặt’ của Người, là sự hiện diện trong Thánh Thần.

    Lm. Giuse Lê Công Đức. PSS.
    …………………………………

    Suy Niệm 2: ĐỨC GIÊSU VẪN HIỆN DIỆN

    A. DẪN NHẬP

    Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13,31; 14,31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng, không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27), vì Người ra đi rồi sẽ trở lại với các ông bằng một cách thế khác.

    Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tinh thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ lòng yêu mến đối với Người  là hãy thực hiện những điều Người truyền dạy :”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy”(Ga 14,5). Và tuân giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối với Người.

    Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người ra đi thì có lợi cho các ông hơn vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và việc làm của Người khi còn tại thế :”Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

    Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các môn đệ sự bình an riêng của Người.  Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta :”Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

    B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

    + Bài đọc 1 : Cv 15,1-2.22-29

    Ngay từ ban đầu, Hội thánh cũng gặp một ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền giáo không đồng ý  nên trình vấn đề này lên Hội thánh.

    Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem và ra quyết nghị : những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu. Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin cho họ : chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.

    + Bài đọc 2 : Kh 21,10-23.

    Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được trông thấy “kinh thành muôn thưở” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy nghi của Giêrusalem mới được trình bầy cho chúng ta :

    • Thành từ trên trời ngự xuống.
    • Rất xinh đẹp và tươi sáng.
    • Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.
    • Đó là Hội thánh tương lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.

    + Bài Tin mừng : Ga 14, 23-29

    Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và ý chính là sự ra đi sắp xẩy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người sẽ không để cho họ mô côi.  Dù Người ra đi, Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.

    Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho các ông.

    C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

    Những lời hứa của Đức Giêsu


    I.
    SỰ HIỆN DIỆN MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU

    1. Sự ra đi của Đức Giêsu

    Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước Trời, được nghe những lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người sắp thành lập.

    Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người : Người sẽ bị bắt, bị đánh dòn, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.

    Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian nan thử thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.

    1. Những lời khích lệ của Đức Giêsu

    Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người.  Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng , ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi :”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23). 

    Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói :”Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng theo một cách thức mới”. 

    Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát triển theo một phương cách mới.

    Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng này là hãy bình tĩnh :”Các con đừng xao xuyến và sợ hãi”(Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.

    Truyện : Thầy đã vác con trên vai

    Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên :

    – Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình ?
    Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta :
    – Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai ?
    Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra,  đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên :
    – Vậy thưa thầy, lúc đó con ở đâu ?
    Chúa âu yếm trả lời :
    – Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.

    Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra  hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ : đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.

    Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói :”Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu  như không có Chúa nữa.

    1. Những lời căn dặn của Đức Giêsu

    Người ta thường nói :”Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến vì nó thường xẩy ra hằng ngày một cách rất tự nhiên.  Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.

     

    1. Về phía Thiên Chúa

    Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng  về phía Thiên Chúa  không có cách mặt xa lòng đâu.  Chúng ta có thể trưng ra  những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa Tiệc Ly :

    “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14,23).
    – “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng Bào chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
    -Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con mồ côi đâu.

    Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu,  Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.

    1. Về phía loài người

    Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu đã bảo :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Giữ lời Thầy là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.

    Đức Giêsu đã nói :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời ThầyAi không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”.  Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa.  Vì đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta  đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.

    Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa, nhưng lời Chúa ở đâu ?  Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói : lời Chúa chứa đựng trong Sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói : lời Chúa còn chứa đựng trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự.  Và lời Chúa còn chứa đựng  trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục…

    Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa , chúng ta thường hiểu là Thánh Kinh, nhất là sách Tin mừng.

    Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ và chúng ta  khi xa mặt Chúa, phải có đức tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta  phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó, Thiên Chúa không bỏ rơi ta.  Người luôn ở trong ta để động viên và giúp đỡ ta  vượt qua gian khổ, để đức tin của ta  ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành.

    Truyện : Con kén và con bướm.

    Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng nó  chết.

    Về sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển  đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong thiên nhiên.  Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy  khả năng phát triển và sinh tồn của nó.

    Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ : Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta  phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ.  Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta . Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ  này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu vững mạnh (M. Link,  Giảng lễ Chúa nhật năm C, tr 133).


    II.ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ
     

    Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã ban bố khi còn ở trần gian.

    Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

    Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

    Léon Dufour giải thích rằng:”Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nazareth, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn.  Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước”(Lecture de l’Evangile selon Jean, Seuil, tr 120). 

    Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh Kinh, là khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

    Về vấn đề này, Léon-Dufour chú giải :”Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn nơi mạc khải  luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian”(Sđd, tr 132).

     

    III. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC ÔNG

    Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con  không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27). 

    Theo phong tục Do thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an  chứ không thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.

    Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom, một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh Kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi từ “bình an hay hòa bình” chỉ chuyển tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát, nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.

    Vì vậy, Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là  vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

    Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác, chẳng hạn khi nói :”Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

    Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan :”Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ mà Đức Giêsu sử dụng là “shalom”.

    Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục sinh và truyền cho các môn đệ  chào hỏi dân chúng cùng cách thức như thế :”Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói : “Bình an cho nhà này”(Lc 10,5-6).

    Đức Giêsu có thể ban bình an cho các môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an :”Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bình an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.

    Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là :”Các con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34).  Về vấn đề này, Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II nói :”Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hòa bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67) 

    Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5,44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hòa bình. Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà thôi. Vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4,8,16; Rm 16,20).

    Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt

    ……………………………………

    Suy Niệm 3:  Giấc mơ thành hiện thực

    Giấc mơ hay ác mộng mỗi người trong chúng ta kẻ ít người nhiều đã từng trải nghiệm. Các nhà khoa học gọi đó là một dạng đặc biệt của tiềm thức. Trong khi thân xác của chúng ta đang ở trong trạng thái yên tĩnh thì bộ não vẫn tiếp tục làm việc. Hồi ức, cảm xúc, cảm nghiệm, ước mơ và những hình ảnh trong tưởng tượng vẫn trào dâng. Đây là những hình ảnh và tình huống dường như thuộc về cuộc sống của chúng ta nhưng không mấy ai có khả năng giải mật. Dù chúng ta muốn hay không, giấc mơ có sức ảnh hưởng đến những sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của con người. Thật là khó nói đâu là giấc mơ, đâu là hiện thực. Giấc mơ trở thành hiện thực khi chúng ta nhận thấy tác động do giấc mơ mang lại trong cuộc sống.

    Giấc mơ trở thành hiện thực! Hiểu theo một nghĩa nào đó thì đây là điều mà đoạn Phúc âm hôm nay đề cập tới. Thánh sử Gioan trong sách Khải huyền đang xuất thần. Đó cũng là nét khác biệt với những thánh sử khác. Đang khi Mátthêu, Máccô và Luca cố gắng tường thuật lại những biến cố lịch sử, những lời nói việc làm của Đức Giêsu trong chặng đường công khai rao giảng Tin mừng, thì Gioan lại đối diện với những thị kiến và những dự đoán về tương lai. Tin mừng theo thánh Gioan chứa đầy những hình ảnh tâm linh. Đoạn Phúc âm hôm nay cũng thế. Trước tiên Đức Giêsu nói về tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người Ngài yêu và sự đáp trả tiếng gọi tình yêu của con người. Đức Giêsu mô tả chuyện gì sẽ xảy ra khi Đức Kitô và Chúa Cha hiện diện trong chúng ta, khi Thần khí của Thiên Chúa thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Thị kiến của Gioan về sự sai phái của Thần khí được hiện thực nơi chúng ta. Đức Giêsu mô tả Chúa Thánh Thần như một nhà giáo, người sẽ dạy dỗ chúng ta mọi điều, đồng thời mách bảo cho chúng ta biết những gì thiết yếu trong đời sống của người Kitô hữu.

    Chúng ta đang sống trong một thế giới mà Thiên Chúa dường như bị lãng quên! Phải chăng đoạn Tin mừng hôm nay chỉ là một giấc mơ hão huyền? Nếu như chúng ta cảm nghiệm giấc mơ này như một hiện thực thì đức tin sẽ tác động như thế nào trong cuộc sống thường nhật? Kể từ biến cố Phục sinh, giấc mơ của chúng ta đã thành hiện thực. Đại lễ Phục sinh hằng năm luôn nhắc nhở chúng ta điều này, giống như lời của sứ thần loan báo nơi mộ trống, những lần Đấng phục sinh hiện ra cùng các môn đệ cũng như chứng tá của các phụ nữ và hai môn đệ trên đường về làng Emmau, … Hình ảnh Chúa chiên lành của chúa nhật vừa qua cũng toả sáng mối quan hệ thân thiết với đoàn chiên. 40 ngày của mùa Phục sinh giúp đức tin của chúng ta lớn mạnh và trưởng thành, giúp chúng ta nạp đủ năng lượng cho cuộc sống thường nhật, và nhất là tạo nên sự hài hoà giữa đức tin và lý trí.

    Đức tin là thứ mà chúng ta không thể ép buộc cũng như cưỡng cầu. Chính Thần khí Chúa là Đấng làm cho giấc mơ của đức tin thành hiện thực nơi người khác. Thần khí Chúa cũng không phải là đặc quyền chỉ dành cho người công giáo. Thần khí Chúa tác động mọi nơi và dấu vết của Thần khí chúng ta có thể tìm thấy trong các tôn giáo khác. Đức Giêsu khuyên chúng ta không vì thế mà xao xuyến hay sợ hãi. Chúa Thánh thần là bậc thầy hoàn hảo. Người sẽ dạy chúng ta những gì tốt đẹp. Khi chúng ta sống đức tin một cách trung thực thì chúng ta mỗi ngày sẽ dần trở nên thí dụ điển hình dành cho người khác. Chúng ta sẽ tích cực đóng góp và xây dựng thế giới mới của Thần khí, là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa ban.

    Lm. Phêrô Trần Minh Đức

    BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ

    VIDEO CLIPS

    THÔNG TIN ƠN GỌI

    Chúng tôi luôn hân hoan kính mời các bạn trẻ từ khắp nơi trên đất Việt đến chia sẻ đặc sủng của Hội Dòng chúng tôi. Tuy nhiên, vì đặc điểm của ơn gọi Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt, chúng tôi xin được đề ra một vài tiêu chuẩn để các bạn tiện tham khảo:

    • Các em có sức khỏe và tâm lý bình thường, thuộc gia đình đạo đức, được các Cha xứ giới thiệu hoặc công nhận.
    • Ứng Sinh phải qua buổi sơ tuyển về Giáo Lý và văn hoá.

    Địa chỉ liên lạc về ơn gọi:

    • Nhà Mẹ: 115 Lê Lợi - Lộc Thanh - TP. Bào Lộc - Lâm Đồng.
    • ĐT: 0263 3864730
    • Email: menthanhgiadalatvn@gmail.com