spot_img
Thêm

    CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH

    BÀI ÐỌC I: Cv 14, 20b-26

    Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa”. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.

    Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.

    BÀI ÐỌC II: Kh 21, 1-5a

    Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: “Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi”. Và Ðấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự”.

    PHÚC ÂM: Ga 13, 31-33a. 34-35

    Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.

    “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.

    Suy Niệm 1: TỪ ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG: VIỆC CHÚA LÀM THẬT TỐT LÀNH!

    Khung cảnh phòng Tiệc Ly. Thánh sử Gioan tường thuật: “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: ‘Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người’” (x. Ga 13,31-33a.34-35). Khó hiểu. Vì khi Giuđa bước ra, đi làm việc của anh ta, thì đáng ra phải nói “Con Người sắp thọ nạn” chứ! Ở đây Chúa Giêsu lại nói về ‘vinh hiển’, và lặp đi lặp lại từ này… Chúng ta chỉ dễ hiểu khi nhớ rằng Khổ nạn và Thập giá không phải là tiếng nói cuối cùng, nhưng là một bước phải đi qua để đến với vinh quang. Vì thế, Giuđa đứng dậy ra đi thì đó là đã tới lúc Con Người… được vinh hiển!

    Phaolô và Barnaba trong đoạn sách Công vụ hôm nay (x. 14,20b-26) được mô tả là đang trong những hành trình sứ vụ đầy hoa trái, nhưng các ngài không quên nhấn mạnh với các giáo đoàn: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào Nước Thiên Chúa”. Thế đó, lại là qui luật ‘phải qua thập giá mới đến vinh quang’! Ta cũng ghi nhận, Phaolô và Barnaba làm nhiều việc, nhưng khi ‘giải trình’ với cộng đoàn ở Antiokia thì các ngài “thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin”. Chính Thiên Chúa đã làm việc – và đây mới là điều cốt yếu. Chia sẻ với hai vị Tông Đồ trong nhận thức này, chúng ta cũng hoà tâm tình với Thánh vịnh 144 (Đáp ca): “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.

    Thị kiến của Gioan trong sách Khải huyền (21,1-5a) một lần nữa xác nhận với chúng ta về bến bờ hạnh phúc, niềm vui, vinh quang mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ở cuối con đường đầy khổ đau và nước mắt của mình. Gioan thấy Giêrusalem từ trời xuống, và tiếng từ trời: “Ðây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la, không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi… Này đây Ta đổi mới mọi sự”.

    Việc Thiên Chúa làm thật toàn hảo, như tất cả các yếu tố lời Chúa hôm nay cho thấy. Về phần chúng ta, hãy nhớ rằng di ngôn cốt tủy mà Chúa Giêsu để lại, đó là “Như Thầy yêu thương anh em, thì anh em hãy yêu thương nhau”. Đó là cách chúng ta đáp lại Thiên Chúa, Đấng “nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.

    Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.

    …………………………

    Suy Niệm 2: NƠI NÀO CÓ YÊU THƯƠNG, NƠI ĐÓ CÓ HẠNH PHÚC

    Lời Chúa của Chúa Nhật V Phục Sinh mời gọi chúng ta nhìn lại những gì Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã làm cho chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe trình thuật về công việc rao giảng của Phaolô và Banaba tại Lýtra, Icôniô và Antiôkhia. Như chúng ta biết, Antiôkhia là nơi mà những người môn đệ Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Ở những nơi đã có đức tin, công việc của các ngài là “củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin” (Cv 14:22). Chúng ta cần ý thức và học hỏi nơi Phaolô và Banaba việc củng cố tinh thần và khuyến khích anh chị em của mình sống đức tin. Thật vậy, nhiều Kitô hữu ngày nay chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa. Họ xem ơn gọi làm Kitô hữu là một gánh nặng hơn là một ân ban. Do đó, họ thường bê trễ trong đời sống thờ phượng. Ngay trong gia đình [cộng đoàn đời tu], giáo xứ cũng có nhiều người nguội lạnh với đời sống đức tin. Chúng ta học nơi Phaolô và Banaba tinh thần khuyên nhủ và động viên, nhất là làm gương sáng qua đời sống yêu thương, đạo đức và thánh thiện của chúng ta. Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần lưu ý rằng, những gì chúng ta làm không phải chỉ làm một mình, nhưng là “Thiên Chúa đã cùng làm với chúng ta” (x. Kh 14:27). Điều này nhắc nhở chúng ta đừng quên việc mời Chúa cùng đồng hành và làm việc với chúng ta.

    Điểm thứ hai chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm của thánh Phaolô và Banaba: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22) để suy gẫm.  Đó là việc thừa nhận rằng: theo kinh nghiệm thường ngày, chúng ta không thể đạt được vinh quang và thành công nếu không trải qua gian khó: một học sinh không thể tốt nghiệp với bằng khen nếu không trải qua những đêm dài thức khuya dậy sớm để “dùi mài kinh sử,” một  nghệ nhân không thể cho ra đời một tác phẩm điêu khắc đẹp nếu không mất nhiều công sức tìm kiếm chất liệu và làm việc. Cũng vậy, chúng ta không thể vào Thiên Đàng nếu không trải qua chống đối, loại trừ, chối bỏ và đau khổ như Chúa Giêsu. Đây chính là điều Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong thị kiến của ngài được trích trong bài đọc  2 hôm nay.

    Bài đọc 2 nói về viễn cảnh của trời mới đất mới (Kh 21:1) hay chúng ta gọi là Thiên Đàng. Thánh Gioan ví trời mới đất mới như “Thành Thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đón tân lang” (Kh 21:2). Những ai sống trong trời mới đất mới này sẽ “được Chúa lau sạch nước mắt,” sẽ không còn nếm mùi sự chết, sẽ không còn tang tóc, kêu than và đau khổ (x. Kh 21:4). Họ sẽ sống hạnh phúc trong một tình trạng mới, trong tình trạng mà Thiên Chúa “sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người [Thiên Chúa], còn chính Người là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ” (Kh 21:3). Điều này nhắc nhở chúng ta về thực trạng đời sống gia đình [cộng đoàn] chúng ta. Thiên Chúa mong ước mỗi gia đình [cộng đoàn] là nơi Thiên Chúa cư ngụ, để ở đó, Ngài dùng các thành viên lau sạch nước mắt cho nhau; Ngài muốn đồng hành với họ để mang lại cho họ sự sống và niềm vui. Thật vậy, Thiên Chúa muốn gia đình [cộng đoàn] của chúng ta trở thành Thiên Đàng, nơi các thành viên không còn làm cho nhau đau khổ, nhưng luôn tìm mọi cách để mang niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Gia đình [cộng đoàn] trở nên Thiên Đàng khi có Thiên Chúa ngự trị, khi có Thiên Chúa là tâm điểm hiệp nhất các thành viên.

    Thiên Đàng chỉ đạt được khi mỗi người sống trọn vẹn những gì Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay. Tin Mừng hôm nay được trích từ chương 13 của Tin Mừng Thánh Gioan và nằm trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly. Những Lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng gồm hai ý tưởng: (1) “giờ” Con Người và Thiên Chúa được tôn vinh (Ga 13:31-32), và (2) ban điều răn mới (Ga 13:33a-35). Hai ý tưởng này phát xuất từ một hành động của Chúa Giêsu, đó là việc Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Nói cách khác, hai ý tưởng trên không thể tách rời nhau: Thiên Chúa chỉ được tôn vinh và Chúa Giêsu chỉ được tôn vinh khi các môn đệ của Ngài sống triệt để giới luật mới, giới luật yêu thương. Khi một người Kitô hữu sống yêu thương và tha thứ, người đó mang lại danh thơm tiếng tốt cho Thiên Chúa. Nhiều người sẽ khen ngợi đạo Chúa. Còn khi một ai đó sống đời sống vô luân, thì nhiều người sẽ mất niềm tin hoặc không tin vào Thiên Chúa.

    Trong phần 1 [Ga 13:31-32], Chúa Giêsu nói đến “giờ” của Ngài, “giờ” mà Ngài và Thiên Chúa được tôn vinh: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. Từ những lời này, Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định cho chúng ta về sự hiệp nhất bất khả phân ly giữa Ngài và Chúa Cha. Tuy nhiên, điều chúng ta đáng để ý ở đây là “giờ” của Chúa Giêsu được bắt đầu khi “Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly” (Ga 13:31). Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly để đi nộp [bán] Chúa Giêsu. Việc Chúa Giêsu và Thiên Chúa được tôn vinh không hệ tại ở việc Giuđa “ra khỏi phòng tiệc ly” để đi nộp Chúa Giêsu. Nhưng hệ tại ở tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho người môn đệ phản bội này, một tình yêu mà Thánh Gioan đã diễn tả trong câu đầu tiên của Chương 13: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.” Chúng ta có thể hiểu câu: “Người yêu thương họ đến cùng theo hai nghĩa sau: (1) nghĩa thời gian và (2) nghĩa phẩm chất. Theo nghĩa thời gian có nghĩa là người yêu thương họ cho đến “hơi thở cuối cùng hay nói đúng hơn cho đến “muôn đời.” Còn theo nghĩa phẩm chất, Ngài yêu các môn đệ với một tình yêu “tột cùng,” tuyệt đối và vô điều kiện. Đây chính là tình yêu mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ trong điều răn mới: “anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Với mệnh lệnh này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau cho đến muôn đời và một cách vô điều kiện, tuyệt đối. Đừng yêu nửa vời! Tình yêu nửa vời luôn là tình yêu lừa dối, không chân thật. Đó không phải là tình yêu của người Kitô hữu.

    Điểm cuối cùng chúng ta suy gẫm cho Chúa Nhật hôm nay là những lời đầy yêu thương và khẩn thiết của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Không phải chúng ta làm được nhiều việc lớn, cũng không phải vì chức vụ này hay chức vụ kia làm chúng ta trở nên môn đệ của Chúa. Không phải vì là Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, hay Giáo Dân mà người khác nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Chỉ có đời sống yêu thương mới làm chúng ta trở nên môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, tình yêu mà Chúa Giêsu muốn chúng ta diễn tả cho nhau phải như tình yêu của Ngài diễn tả cho Giuđa [kẻ nộp Ngài], cho Phêrô [kẻ chối Ngài], cho các môn đệ khác [những người bỏ Ngài], cho chúng ta [những người phạm tội mỗi ngày].

    …………………………

    Suy Niệm 3: Yêu như Thầy yêu anh em


    Cảm nhận của chúng ta về thời gian được xác định qua ba nấc tiếp nối nhau: quá khứ, hiện tại và tương lai. Chúng ta hồi tưởng lại quá khứ, sống trong hiện tại và hướng về tương lai. Quá khứ sẽ dần dần mờ nhạt và thời gian có thể chữa lành một số vết thương. Hiện tại đang phấn khích hay đang đè nặng trên vai chúng ta nhưng không ai có khả năng nắm giữ nó. Tương lai thắp sáng niềm hy vọng hay chứa đầy âu lo nhưng ngày mai ra sao không ai biết trước. Người Kitô hữu khi ngước nhìn về Đức Giêsu thì ba nấc thời gian đã bị phá vỡ và tiếp đón một cảm nhận mới. Bởi vì bữa tiệc ly, sự chết và biến cố phục sinh của Đức Giêsu có liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chúng ta gọi đó là Tam Nhật Thánh và mừng kính như một ngày lễ duy nhất. Thánh Gioan đã làm nổi bật sự kiện ấy khi mô tả trong sách Khải huyền: „Những điều cũ đã biến mất. Đấng ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mớ mọi sự“.

    Qua đoạn Tin mừng hôm nay thánh Gioan giúp chúng ta nhớ lại những đã xảy ra tại phòng tiệc ly ở Giêrusalem. Đây là phần dẫn nhập trong lời từ biệt của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Ngài đã công khai rao giảng Tin mừng suốt ba năm, thực hiện phép lạ, chữa lành nhiều bệnh nhân. Ngài luôn mở rộng tấm lòng dành cho những người mà Ngài có duyên gặp gỡ: Ông Giakêu trên thân cây, tiếng kêu gào cầu cứu của người mù bên cổng thành, Người đàn bà ngoại tình bị lôi kéo và đẩy té bên chân Ngài, những người bị phong cùi đứng chờ từ xa, đám trẻ mà người ta đem đến xin Ngài chúc lành, … Ngài luôn mở rộng cõi lòng khi họ cần sự giúp đỡ. Nhưng bây giờ hành  trình  của  Ngài cùng với các môn đệ và dân chúng khắp nơi đã đến hồi kết. Bây giờ chỉ còn vỏn vẹn một chút thời gian nữa thôi. Đức Giêsu ra đi, nhưng những lời trăn trối của Ngài mãi còn đó. Những lời khuyên răn trước đây của Ngài được tóm gọn trong một giới răn mới. Lời trăn trối của Ngài là trọng tâm của sứ mệnh rao giảng của Ngài. Không giống như một số linh mục rao giảng nước nhưng lại uống rượu, Ngài sống những gì mình rao giảng. Cảm nghiệm về tình yêu sống động của Ngài giúp họ kiên vững trong hiện tại và tương lai. Giới luật yêu người đã được nói tới trong Cựu ước, điều mới ở đây chính là hãy „yêu như Thầy đã yêu thương anh em“. Hình thức và mẫu mực cân đo của tình yêu là chính Đức Giêsu. Bởi vậy chúng ta không thể bỏ ngoài tai lời biện bạch của thánh Augustinô: Tình yêu là yếu tố duy nhất để phân biệt con cái của sự sáng và con cái của tối tăm. Ngài còn khuyên chúng ta: Hãy yêu đi, rồi làm gì hãy làm! Chỉ có ai sống và thực hành như lời trăn trối của Đức Giêsu, ai sống trong mối tương quan sống động với Ngài, kẻ đó mới khám phả ra điểm hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai.

    Giáo hội qua mọi thời đại luôn tâm đắc và ý thức về sự thật này: „Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời“. Hơn bao giờ hết con người ngày nay khi nhìn vào Giáo hội họ muốn biết người Kitô hữu sống và thể hiện tình yêu như thế nào. Thời khai sinh của Giáo hội những người ngoài Kitô giáo đã phải ngạc nhiên thốt lên: „Hãy nhìn kìa, họ yêu thương nhau biết là chừng nào“. Giới luật yêu thương và tình liên đới đích thực là những nét đặc trưng của người Kitô hữu ngày đó. Nét đặc trưng của người Kitô hữu ngày nay được mô tả như thế nào? Khi Đức Giêsu luôn hiện diện và lan toả trong mọi lãnh vực của cuộc sống thường nhật, khi trong nhận thức, trong lời cầu nguyện cũng như trong việc làm luôn lột tả điều thánh Phaolô nói đó chính là Đức Giêsu sống trong tôi, thì những cảm nghiệm đau buồn của quá khứ sẽ được biến đổi. Khi hướng nhìn về tương lai thì thay vì những âu lo sẽ là lời chúc phúc, bởi vì Đức Giêsu đã biến đổi mọi sự thành trời mới đất mới. Cách chuẩn xác để xác nhận chúng ta sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa: „Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau“.

    Lm. Phêrô Trần Minh Đức

    ……………………….

    Suy Niệm 4: GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

    A. DẪN NHẬP

    Yêu thương ! Đây là một đề tài rất quen thuộc và rất phổ biến đối với thời đại chúng ta. Người ta hay thảo luận, quảng cáo, ca ngợi tình yêu dưới nhiều hình thức như tiểu thuyết, phim ảnh, truyền hình, báo chí… Nhưng thứ tình yêu mà người ta bàn đến là thứ tình yêu nào ? Thật là hàm hồ không thể xác định được.

    Tình yêu thương mà chúng ta bàn đến hôm nay là thứ tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, một thứ tình yêu cao quí giúp cho con người vươn tới Thiên Chúa là tình yêu (x.1Ga 4,8). Tình yêu này là cốt lõi trong Đạo và đã trở thành giới luật :”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi… Ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình”(Mt 22,37-39). Giới luật này đã được ghi trong sách Thứ luật và sách Lêvi…

    Nếu giới răn yêu người đã có sẵn trong sách Lêvi, tại sao hôm nay Đức Giêsu lại còn đưa ra một giới răn mới về giới luật yêu thương :”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13,34) ?

    Sở dĩ giới răn Đức Giêsu đưa ra được gọi là mới vì nội dung của nó phong phú hơn, và nó đã được đổi mới. Nó phong phú không tại chữ “yêu” mà tại chữ “như”. Như vậy là Ngài có ý nói : chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương. Ngài đã làm thế nào chúng ta phải làm như vậy.

    Hãy sống với nền văn minh tình thương mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói tới.  Giới răn yêu thương của Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện. Thực ra, Đức Giêsu đã làm gương, đã thực hiện trước, chúng ta chỉ việc dấn bước theo gương Ngài. Đây là một việc khả thi, không vượt quá sức chúng ta. Với sự trợ lực của Chúa cùng với sự cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được, và qua đó, người ta sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài (x. Ga 13,35).

    B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

    +  Bài đọc 1 : Cv 14,20-26. 

    Bài đọc này chấm dứt hành trình truyền giáo đầu tiên của thánh Phaolô và Barnabê. Trước khi ra đi, hai vị Tông đồ củng cố các giáo đoàn mới thành lập, khuyên nhủ họ giữ vững lòng tin trong cơn thử thách gian nan, nếu muốn cho Nước Chúa được mở rộng.

    Sau khi cắt đặt các chức việc phụ trách các cộng đoàn, hai vị trở về cộng đoàn đã sai mình đi, báo cáo thành quả của việc rao giảng.

    +  Bài đọc 2 : Kh 21,1-5. 

    Đây là thị kiến cuối cùng của thánh Gioan. Bài này mở ra một thế giới mới và một trật tự mới các sự việc do Đức Giêsu bắt đầu.

    Điểm tới mà Thiên Chúa muốn đưa nhân loại về là “trời mới đất mới”, như bài Khải huyền trình bầy một cách thần bí : đó là được sống mãi mãi với Thiên Chúa, trong niềm vui hạnh phúc vững bền. Chính niềm tin này nâng đỡ khích lệ các tín hữu, đặc biệt các nhà truyền giáo, trung kiên trong sứ mạng.

     

    +  Bài Tin mừng : Ga 13,31-33a.34-35.

    Lời từ biệt của Đức Giêsu được diễn ra trong phòng tiệc ly, sau khi Giuđa đã ra đi vào đêm tối. Lời từ biệt nhắc tới  giờ Ngài bị treo trên thập giá. Đức Giêsu cho biết, bằng cuộc tử nạn, Ngài làm vinh quang cho Thiên Chúa Cha, và ngược lại, Thiên Chúa Cha lại tôn vinh Ngài.

    Ngài sẽ ra đi, và trong lúc chờ đợi Ngài trở lại, họ còn có anh em đồng loại để yêu thương, họ phải sống theo một giới răn mới. Giới răn yêu thương – và tiêu chuẩn của giới răn này là “Như Thầy đã yêu thương các con”. Thế gian sẽ biết rằng các Tông đồ là môn đệ của Đức Kitô bởi lòng trung tín của họ đối với giới răn này.

    C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA 

    Các con hãy yêu thương nhau
    I.
    GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG 

    1. Trong Cựu ước 

    Phải chăng tình yêu đích thực phải bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7) ? Sách Khởi nguyên cho ta thấy nguồn gốc của tình yêu đích thực. Nguồn gốc ấy chính là Thiên Chúa, Đấng luôn sáng tạo và giải phóng để mọi vật hiện hữu theo kế hoạch yêu thương của Ngài. Từ ban đầu, Ngài đã dựng nên ánh sáng, mặt trăng giữa hoàn vũ, trong đó có trái đất với mọi thứ cây cỏ và súc vật. Những thứ ấy đều tốt nhưng Thiên Chúa không thể yêu thương chúng, vì yêu thương đòi phải có đáp trả. Vậy cuối cùng Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài… Ngài ban cho họ có tình yêu, có tự do. Đó là món quà quí giá Ngài ban cho con người.

    Khi Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng của Ngài, Ngài đã ký kết với họ một giao ước qua trung gian ông Maisen, theo đó,  họ phải tin theo, yêu mến , trung thành với Ngài, với lề luật của Ngài. Trong lề luật đó, ta thấy có hai khoản luật căn bản và quan trọng nhất, đó là :”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình””(Mt 22,37-39 ; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28).

    1. Trong Tân ước

    Đọc đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta liên tưởng đến lời cụ Phan bội Châu viết trong “Lưu cầu huyết lệ tân thư” rằng :”Con chim sắp chết hót tiếng bi thương, con người sắp chết nói lời tâm huyết”.

    Sau khi Giuđa ra đi vào đêm tối, chỉ còn lại Đức Giêsu và mười một môn đệ, trong bầu khí yêu thương và nhuốm mầu bi ai, Ngài đã nói những lời tâm huyết trối lại cho các ông những lời cuối cùng:”Thầy truyền cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13,14). 

    Kitô giáo vừa là đạo mới vừa là đạo cũ. Cũ là vì đạo đã có từ thời tổ phụ Abraham. Mới là vì Đức Kitô đến đổi mới lại đạo cũ. Đấng Cứu Thế đến thiết lập một giao ước mới không phải phê chuẩn bằng máu chiên bò, nhưng bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.


    II. MỘT GIỚI RĂN MỚI

    Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy ban cho các con một điều răn mới” thì thực sự, đó không phải là điều răn mới theo nghĩa Đức Giêsu là người đầu tiên ban bố. Dân Chúa trong Cựu ước đã nghe biết về giới răn yêu thương. Và giới răn yêu thương đã được viết trong sách Lêvi :”Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình”(Lv 19,18). Vậy tại sao Đức Giêsu lại gọi giới răn yêu thương là giới răn mới ?

    Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy điểm mới mẻ mà Đức Giêsu muốn nói không nằm ở chữ “yêu”, vì Ngài đã từng nói:”Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì ? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao”? (Mt 5,6), nhưng cái mới ở đây nằm ở chữ “như”, Đức Giêsu nói:”NHƯ Thầy đã yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau”.

    Yêu như Đức Giêsu đã yêu là một thứ tình yêu vô vị lợi, không đòi đáp trả như một thứ đổi chác : Có đi có lại mới toại lòng nhau. Tình yêu rộng mở cho hết mọi người, kể cả kẻ thù, như cảm nghiệm của thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Rôma:”Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân”(Rm 5.8b). Đức Kitô đã chết cho chúng ta  ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là ngay lúc chúng ta  ở trong tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Yêu như Đức Giêsu đã yêu còn là một tình yêu dám hy sinh tính mạng vì người yêu, chịu chết trên cây thập giá vì tội lỗi nhân loại.

    Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết rằng trước khi ban cho các môn đệ giới răn mới này, thì trước đó, ngay trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể để lại chính Mình và Máu Ngài làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Kế đó,  Ngài lại còn dùng chính Máu của mình để lập nên một giao ước mới thanh tẩy tội lỗi chúng ta. Mặc dù là thân vô tội, nhưng vì yêu thương chúng ta, Đức Giêsu đã chấp nhận trở nên con Chiên hiền lành bị đem đi sát tế vì tất cả tội lỗi chúng ta (x. Ga 1,29).

    Tắt một lời, cái mới trong giới răn yêu thương của Đức Giêsu không nằm ở nguyên một chữ “yêu”, nhưng nằm ở chữ “như”. Yêu như Ngài đã yêu chúng ta, đó là một tình yêu dành cho hết mọi người, hoàn toàn vị tha, luôn hướng về người mình yêu, một tình yêu không tính toán hơn thiệt, tình yêu chỉ có cho đi mà không hề đòi đáp trả, một tình yêu không có giới hạn.

    III. SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ

    1. Thư Mục vụ của HĐGMVN năm 2006. 

    Thư mục vụ năm 2006 chọn chủ đề “Sống đạo hôm nay” để mời gọi mọi người sống niềm tin  bằng những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê viết:”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”(Gc 2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta.

    Chúng ta có thể nói được ý chính của bức thư mục vụ này được tóm gọn trong công thức “Yêu thương và phục vụ”. Thư mục vụ nói :”Con người mới theo gương Chúa Giêsu phải là con người “dấn thân phục vụ”. Nếu việc phục vụ tha nhân có thể giúp cho người khác nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Kitô hữu, thì chính việc phục vụ đó cũng có thể giúp Kitô hữu cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa cách rõ nét hơn…

    Như thế, dấn thân phục vụ con người là đòi hỏi tất yếu của đức tin Kitô giáo. Đời sống đạo luôn luôn phải được đặt trên nền tảng bác ái yêu thương, vì đây là điều răn quí trọng nhất (x. Mt 22,37-39) và là dấu hiệu rõ ràng nhất khẳng định chúng ta thuộc về Chúa Giêsu:”Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau”(Ga 13,35) (Trích thư Mục vụ số 6).

    1. Sống và yêu thương 

    Yêu thương vẫn là lẽ sống của con người. Ai mà không biết yêu thương ? Nếu một người chẳng muốn yêu ai, và cũng không muốn ai yêu mình thì có thể kể như không phải là con người nữa. Nói thế chắc không quá đáng ?  Ta hãy xem từ một kỳ công cho đến một công việc bình thường thôi, có ai lại không làm do động lực yêu thương ? Dù là vị kỷ, chỉ yêu chính mình đi nữa – chứ nếu tuyệt nhiên không yêu thương đến cả bản thân mình – thì hầu chắc là trạng thái của người tâm thần mà thôi.

    Trong cuộc sống hằng ngày, theo nguyên tắc thì ai cũng phải yêu, nhưng chúng ta thấy người ta có thể ở một trong ba trạng thái này :

    a) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hỏa ngục trần gian.

    b) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại, nhưng vẫn tốt hơn tình trạng trên.

    c) Yêu thương và được yêu thương – đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng:”Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em”.

    1. Yêu bằng tình yêu nào ? 

    Ngày nay người ta nói nhiều đến tình yêu, nghiên cứu tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng là thứ tình yêu nào ? Eros hay Agapè ? Tình yêu bản thân hay tình yêu kẻ khác ?  Theo từ ngữ Hy lạp ta thấy hai từ Eros và Agapè diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau :

    a) EROS : là thứ tình yêu vị kỷ, chỉ biết thu vào, tìm mình trong người khác. Đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại họ.

    Viết về kinh nghiệm của mình ở tại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xẩy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để sống còn. Người ta sống nhờ những gì người ta cho đi (McCarthy).

    Truyện : Chàng Narcisse cô đơn.

    Huyền thoại Hy Lạp kể rằng Narcisse là một vị thần rất đẹp trai. Nàng tiên Echo (Tiếng Vọng) yêu chàng nhưng bị chàng cự tuyệt, đã biến thành tượng đá. Một hôm Narcisse đi lang thang, tình cờ đến bên bờ một giếng nước, chàng nhìn thấy bóng mình trong lòng giếng và đâm ra ngây ngất  say mê. Chàng cố sức nắm bắt cái bóng của mình, nhưng không cách gì bắt được, nên sinh ra buồn bã và chết, biến thành bông hoa thủy tiên bên bờ giếng.

    Mỗi người chúng ta ít nhiều đều là anh chàng Narcisse đáng buồn ấy, bởi vì ai cũng yêu mình thái quá, ai cũng khoe rằng mình hay, mình giỏi, mình đẹp… Và ai cũng muốn mình là trung tâm vũ trụ, người khác sinh ra là để phục vụ mình, để cuối cùng nằm chết bên bờ giếng hư vô, chả biết có hóa thành hoa thủy tiên không.

    b) AGAPE : là thứ tình yêu xả kỷ, vị tha, chỉ biết tìm hạnh phúc cho người khác. Đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác, quên mình, quên hạnh phúc của mình để nghĩ đến người khác.

    Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng nên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là những người sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục các tính ích kỷ.

    Truyện : Trở nên người cùi.

    Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giầu do nghề nghiệp,  nhưng nhớ đến những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành những đau đớn của con người.

    Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi được tổ chức tại Cairô, thủ đô Ai cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiệp  với bất cứ thành viên nào trong hội nghị. Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng như chết bao trùm cả phòng họp : nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì ? Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để mình nhiễm bệnh cùi để có thể tự anh quan sát diễn biến của cái bệnh kinh khủng này.  Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả của tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để góp phần vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh.

    Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của Đức Kitô.

    Yêu thương có đặc tính là trao ban, là cho đi, trao tặng ngay cả đến bản thân. Chính lúc cho đi mạng sống mình trên thập giá, tình yêu của Đức Giêsu mới thực sự lên ngôi, tình yêu ấy mới bắt đầu  chiếm hữu tâm hồn nhân loại. Nói khác đi, yêu thương chính là hy sinh chia sẻ bất cứ điều gì mình có – Thế nên trong tình yêu thương chân thành thì chuyện hy sinh là tất nhiên (như trong nước thì tất nhiên phải có oxy và dydrô vậy), chứ nếu ngại ngùng, sợ phiền hà… thì chưa kể là Tình Yêu thương đích thực.

    Truyện : Tôi đã cho đi tình yêu của mình.

    Một buổi tối nọ, trước khi ngôi sao âm nhạc nổi tiếng của Broadway, Mary Martin lên sân khấu trình bầy vở nhạc kịch lừng danh South Pacific (vở nhạc kịch này đoạt giải hay nhất năm 1950). Người ta đưa cho Mary Martin một mảnh giấy của Oscar Hammerstein, tác giả của vở kịch này, hiện đang nằm trên giường bệnh, sắp chết. Không biết trong mảnh giấy viết gì, chỉ biết rằng sau buổi trình diễn hôm đó, người ta ùn ùn chạy ra hậu trường, khóc lóc, nói rằng :”Mary, điều gì đã xẩy ra với cô tối nay vậy ? Chúng tôi chưa bao giờ thấy cô diễn xuất như vậy cả”. Vừa chớp mắt đôi mắt ướt đẵm, Mary đọc bức thư ngắn ngủi của Oscar Hammerstein, nội dung như sau :

    Mary mến, một cái chuông không phải là chuông cho đến khi cô rung nó. Một bản nhạc không phải là bản nhạc cho đến khi cô hát nó. Tình yêu trong trái tim của cô  đừng để nó nằm yên tại đó. Tình yêu không phải là tình yêu cho đến khi cô cho đi”.

    Rồi cô ta nói :”Tối nay, tôi đã cho đi tình yêu của mình” (Internet).

    Hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học cụ thể, nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, đó là một thách đố triền miên : phải thực hiện sự cho đi của mình, phải thể hiện một cách rõ ràng bằng hành động, phải làm cho thiên hạ thấy được sự yêu thương nhau trong cư xử, của những người anh em trong một thân thể duy nhất là Hội thánh, trước khi lan tỏa đến những người ngoài Giáo hội.

    1. Sống với nền văn minh Tình thương

    Trong những năm gần đây, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, mầu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách của người Kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta :”Thầy  ban cho chúng con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau” .

    Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì ? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương có một đời sống phong phú và hiệu quả. William Blake nói :”Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học tỏa sáng tình thương”. Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống của chúng ta và của mọi người.

    Khi kết thúc cuộc đời, nhìn lại, người ta chẳng thấy có gì quí giá cho bằng Tinh Thương yêu. Con người chỉ thấy được hạnh phúc khi mình biết yêu và được yêu. Đây là một chứng từ : Một bác sĩ, được ưu tiên chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của cuộc đời, nói rằng : con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thực sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn (McCarthy).

    Yêu thương anh em là sống tinh túy của Đạo. Có thể rằng trong vài đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo với 5 lần kinh nguyện trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm mình phạt xác, diệt dục nhiều hơn ta như Ấn độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh ta phải là Tình yêu “nhờ dấu ấy, người ta mới biết chúng con là môn đệ Thầy”.  Giáo hữu tiên khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung quanh đều kêu lên :”Kìa xem họ thương yêu nhau” . 

    Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy : họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân.

    Ông Tertullianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau :”Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng : Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô sơ khai ở Giêrusalem.

    Thánh Giêrônimô có kể lại câu chuyện về thánh Gioan tông đồ. Lúc vị Tông đồ đã về già, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu trong cộng đoàn là hãy yêu thương nhau. Người ta phát chán vì thấy Ngài cứ nói mãi điều ấy, nên mới hỏi lý do. Ngài trả lời :”Bởi vì đó là điều răn của Chúa, chỉ cần giữ điều răn này là đủ”.

    Điều duy nhất và cần thiết mà chúng ta phải làm trong ngày hôm nay đó là khám phá lại năng lực của tình yêu, loại tình yêu mà Đức Giêsu đã truyền giảng. Tình yêu ấy nâng con người lên một thế giới cao hơn, mang lại cho họ niềm hy vọng mới.

    Một người Ấn giáo đã nêu thắc mắc nho nhỏ sau đây với một thừa sai Kitô giáo:”Nếu Kitô hữu các ngài sống đúng như lời Kinh thánh của các ngài dạy (nghĩa là biết yêu thương như lời Kinh thánh dạy) thì chỉ trong vòng 5 năm thôi, các ngài sẽ chinh phục được cả Ấn độ”.

    Thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay :”Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này : là các con có lòng yêu thương nhau”(Ga 13,35), chúng ta hãy đem tình yêu vào trong cuộc sống, chính tình yêu sẽ làm cho mọi công việc của chúng ta, tuy tầm thường, nhưng sẽ lóe sáng trước mặt thiên hạ để người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua con người của chúng ta.

    Truyện : Viên ngọc lóe sáng.

    Có hai người bạn đi vào tham quan bên trong một tiệm bán đồ nữ trang. Khi đã chiêm ngắm nhiều viên đá quí, họ để ý và lấy làm lạ là có một viên ngọc sần sùi, không óng ánh bóng loáng như những viên ngọc khác. Vì thế, một người bạn lên tiếng bình phẩm:”Nếu viên đá này không có vẻ gì quí giá cả, tại làm sao người ta lại trưng bầy nó ở đây”? Nghe vậy, người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm lấy viên ngọc và nắm chặt trong lòng bàn tay mình. Một lát sau viên đá mờ đục không bóng loáng đó trở nên lấp lánh muôn mầu sắc hết sức kỳ diệu. Thấy lạ, một người bạn hỏi ông chủ tiệm :”Làm sao mà kỳ lạ vậy”? Người chủ trả lời :”Đây là viên ngọc mắt mèo, được mệnh danh là viên đá thiện cảm, nghĩa là nó cần có đụng chạm với hơi nóng ấm của bàn tay, tức khắc nó sẽ phát ra  những tia sáng óng ánh muôn mầu sắc là thế” (Quê Ngọc).

    Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà lạt

                                                                      

    BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ

    VIDEO CLIPS

    THÔNG TIN ƠN GỌI

    Chúng tôi luôn hân hoan kính mời các bạn trẻ từ khắp nơi trên đất Việt đến chia sẻ đặc sủng của Hội Dòng chúng tôi. Tuy nhiên, vì đặc điểm của ơn gọi Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt, chúng tôi xin được đề ra một vài tiêu chuẩn để các bạn tiện tham khảo:

    • Các em có sức khỏe và tâm lý bình thường, thuộc gia đình đạo đức, được các Cha xứ giới thiệu hoặc công nhận.
    • Ứng Sinh phải qua buổi sơ tuyển về Giáo Lý và văn hoá.

    Địa chỉ liên lạc về ơn gọi:

    • Nhà Mẹ: 115 Lê Lợi - Lộc Thanh - TP. Bào Lộc - Lâm Đồng.
    • ĐT: 0263 3864730
    • Email: menthanhgiadalatvn@gmail.com