spot_img
Thêm

    CHÚA NHẬT 5 MC/C

    BÀI ĐỌC I: Is 43, 16-21

    Chúa là Đấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Đấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta”.

    BÀI ĐỌC II: Pl 3, 8-14

    Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Đức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại. Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Đức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Giêsu Kitô.

    PHÚC ÂM: Ga 8, 1-11

    Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

    Suy Niệm 1: ĐỂ TẤT CẢ LẠI ĐÀNG SAU VÀ LAO VỀ PHÍA TRƯỚC

    Tuần thứ 5 Mùa Chay là tuần lễ cuối cùng trước khi bước vào Tuần Thánh. Hành trình ‘sa mạc’ của mỗi người và của cộng đoàn cũng đã trải qua nhiều cung bậc. Những cố gắng để trung tín với Chúa, và những bất trung! Những kinh nghiệm về tình thương và sự săn sóc của Chúa, cũng như kinh nghiệm về sự cứng cỏi kém tin của mình!… Qua tất cả, hành trình vẫn còn mở ra, chúng ta vẫn còn đang bước đi, và lời Chúa hôm nay trao gửi một thông điệp giục giã: Hãy quên hẳn đàng sau mà lao về phía trước!

    Trước hết, Bài đọc Isaia (43,16-21) nhắc lại những hành động giải phóng của Chúa đối với dân, kèm với lời Chúa kêu gọi đầy khích lệ: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa… Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan… Ta làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống…” Rõ ràng đây là một sự thúc bách, một tình thế khẩn cấp. Việc nhớ lại quá khứ cũng cần chứ, nhưng lúc này không cần, vì điều cần là bước đi, tiếp tục kinh nghiệm cách mới mẻ tình thương và sự quan tâm chăm sóc của Chúa.

    Để rồi, nếu có lúc nào nhớ lại, thì dân Chúa càng được củng cố trong sự thật xuyên suốt này: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan” (x. Đáp ca, Tv 125). Nghĩa là, khi quên hẳn đàng sau mà lao về phía trước, thì điểm đến chung cuộc sẽ đầy niềm vui – niềm vui của những người nhận ra rằng “Chúa đối xử cách đại lượng” với mình.

    Đó chính là kinh nghiệm của người phụ nữ ngoại tình trong câu chuyện Phúc Âm Gioan (8,1-11). Chị sa ngã nặng nề, bị đấu tố và đứng trước cuộc xử tử thê thảm… Nhưng Chúa Giêsu đã giải thoát chị khỏi tay đám đông kia. Và chính Người – con người duy nhất ở đó đủ tư cách để ném đá chị – cũng tha bổng chứ không xử tội chị. “Chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”, lời này có nghĩa: Chị hãy để tất cả quá khứ lại đàng sau, hãy bước về phía trước với một con người khác, một con người hoàn toàn mới mẻ! Chị được Chúa Giêsu đối xử đại lượng biết bao… Chúng ta hãy tưởng tượng niềm vui mừng hân hoan của người phụ nữ này!

    Chúa Giêsu tuyệt vời quá như thế đó. Ta hiểu tại sao thánh Phaolô cảm nghiệm rằng được biết Chúa Giêsu là điều quá tuyệt vời. Chính Chúa Giêsu làm cho Phaolô coi mọi sự là rác rưởi, và “quên hẳn mọi sự đàng sau mà lao về phía trước”. Phaolô tâm sự: “Không phải là tôi đã đạt đến đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy” (x. Pl 3,8-14). Đuổi theo để chiếm lấy Đức Kitô, bởi vì đã được Đức Kitô chiếm lấy! Đây chính là kinh nghiệm mà sau này thánh Augustino sẽ diễn tả bằng lời Chúa nói trong tâm hồn mình: Ngươi tìm Ta, vì ngươi đã gặp Ta!

    Hôm nay Chúa cũng đang khuyến khích mỗi người chúng ta: Hãy để mọi sự lại đàng sau và lao về phía trước, vì Chúa đang chờ ta ở phía trước!

    Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.

    ……………………..

    Suy Niệm 2: HỠI NGƯỜI! HÃY NHỚ MÌNH LÀ BỤI ĐẤT NÊN HÃY CÓ LÒNG NHÂN TỪ

    Lời Chúa của Chúa Nhật V Mùa Chay cho chúng ta một viễn cảnh thật tươi sáng không chỉ cho dân Do Thái trong thời lưu đày ở Babylon, hay dân Do Thái trong thời của Chúa Giêsu, mà nhất là cho chúng ta ngày hôm nay. Viễn cảnh tươi sáng này không đến từ việc chúng ta sẽ được ban cho tiền dư gạo thừa, nhưng đến từ việc chúng ta sẽ được giải phóng khỏi nô lệ của tội lỗi để sống một cuộc sống đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô.

    Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia sử dụng ngôn từ của kinh nghiệm xuất hành, kinh nghiệm vượt qua Biển Đỏ để nhắc cho dân Israel về uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra điều này trong những hình ảnh như: “vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng,” “Đấng đã cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17). Từ kinh nghiệm được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, qua lời tuyên sấm của mình, Isaia giúp dân Israel nhận ra những kỳ công mà Thiên Chúa đang thực hiện cho họ, đó là đưa họ ra khỏi cảnh lưu đày Babylon. Và Isaia gọi đây là “một việc mới, việc đó manh nha rồi” mà dân Israel phải nhận thấy (x. Is 43:19). Tuy nhiên, lời sấm của Isaia không chỉ dừng lại ở việc Thiên Chúa sẽ đưa dân ra khỏi cảnh lưu đày ở Babylon, mà còn ám chỉ đến “những dòng sông tại vùng đất khô cằn,” đến “nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (Is 43:20). Đây chính là hình ảnh dòng nước của Bí Tích Rửa Tội, dòng nước mà sẽ rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi và làm cho chúng ta chết đi cho tội để sống cho Thiên Chúa và anh chị em của mình. Đây chính là điều mà Thánh Phaolô trình bày cho tín hữu Philipphê trong bài đọc 2.

    Chúng ta nhận ra hình ảnh và ý nghĩa của Bí Tích Rửa Tội qua lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Trong Bí Tích Rửa Tội, chúng ta cùng chết với Đức Kitô để cùng sống lại với Người trong một sự sống mới, một cuộc sống hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô. Đây chính là điều Thánh Phaolô đã sống và nhắc nhở tín hữu Philipphê và cả chúng ta phải cố gắng để coi “tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9). Tuy nhiên, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta rằng: việc chiếm lấy được Đức Kitô không phải “nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3:11). Nói cách khác, việc chiếm được Đức Kitô là “phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:14). Chúng ta sẽ thấy rõ phần thưởng của Thiên Chúa này trong bài Tin Mừng hôm nay.

    Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện đẹp nhất trong Kinh Thánh. Nó đẹp vì không chỉ giúp chúng ta nhận ra tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa được tỏ lộ qua Đức Giêsu Kitô, nhưng còn giúp chúng ta nhận ra nhân phẩm đáng quý của mình, nhân phẩm tuyệt đẹp đến nỗi tội lỗi chỉ làm lu mờ chứ không thể huỷ hoại. Chính nhân phẩm được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1:26-27) này mà Chúa Giêsu đã đến để chết hầu phục hồi vẻ đẹp nguyên tuyền của nó. Thánh Luca đã trình bày sự phục hồi nhân phẩm đã bị lu mờ bởi tội lỗi này trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, và hôm nay trong câu chuyện của người phụ nữ ngoại tình. Qua hai bài Tin Mừng của tuần trước và hôm nay – tuần trước là việc phục hồi nhân phẩm của người nam và tuần này là của người nữ – Giáo Hội muốn khẳng định rằng, nhân phẩm của người nam và người nữ giống nhau vì cả hai đều được sáng tạo theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.

    Đọc bài Tin Mừng hôm nay, bạn cảm thấy thế nào? Tội nghiệp cho người phụ nữ ngoại tình? Lên án các kinh sư và người Pharisêu? Ngưỡng mộ cách đối xử của Chúa Giêsu? Trong cuộc sống thường ngày, nếu biết ai đó phạm tội ngoại tình, chúng ta phản ứng thế nào? Chắc chắn ai trong chúng ta cũng bỉu môi tắc lưỡi và bàn tán xôn xao về người đó. Thật vậy, khi đọc bài Tin Mừng, có thể chúng ta dễ dàng cảm thông cho người phụ nữ ngoại tình, nhưng trong đời sống thực tế, chúng ta lại trở nên như các kinh sư và người Pharisêu, chúng ta kết án anh chị em của mình. Tuy nhiên, điều chúng ta cần biết là trong Kinh Thánh, “ngoại tình” không ám chỉ đến việc phản bội trong đời sống vợ chồng cho bằng ám chỉ việc “bất trung” với Thiên Chúa của dân Israel [và mỗi người chúng ta] trong việc bỏ Chúa để tôn thờ ngẫu tượng, và khi chúng ta phạm tội. Điều này giúp chúng ta hiểu lý do tại sao khi Chúa Giêsu nói ai không có tội thì ném đá người phụ nữ trước; và mọi người lần lượt nhận ra việc bất trung của họ khi phạm tội. Điều này nhắc nhở chúng ta phải nhìn lại mình trước khi kết án người khác.

    Chúng ta cùng nhau phân tích phản ứng và thái độ của các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay để rút ra những bài học hữu ích giúp chúng ta đối xử với anh chị em của chúng ta cách cảm thông và yêu thương hơn. Tuy nhiên, trước khi đi vào chi tiết từng nhân vật, chúng ta lưu ý đến chi tiết sau: Hình ảnh núi Ôliu (x. Ga 8:1), nơi Chúa Giêsu sẽ đến sau bữa tiệc ly với các môn đệ và bị bắt ở đó, tạo nên bối cảnh cho bài Tin Mừng hôm nay. Hành động của Chúa Giêsu trên núi Ôliu gợi cho chúng ta nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu được Thánh Mátthêu trình bày khi Ngài giảng về tám mối phúc: “Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ” (Ga 8:2). Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nói rằng: sự kiện xảy ra cho người phụ nữ ngoại tình là bài giảng của Chúa Giêsu về mối phúc [và mối hoạ] trong Tin Mừng Thánh Gioan: phúc cho những ai được Thiên Chúa tha thứ và khốn cho những ai chỉ biết kết án người khác mà không ăn năn sám hối. Bây giờ, chúng ta phân tích phản ứng và thái độ của các nhân vật trong bài Tin Mừng.

    Thứ nhất là Chúa Giêsu: Ngài đang giảng dạy thì bị cắt ngang bởi việc các kinh sư và người Pharisêu “dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: ‘Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?’” (Ga 8:3-5). Đứng trước tố cáo và bản án viết sẵn bởi các kinh sư và người Pharisêu cho người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu bị đặt trong một tình huống “tiến thoái lưỡng nan”: Nếu nói không lên án [ném đá] người phụ nữ ngoại tình, Ngài bị xem là chống lại luật của Môsê, điều mà người Do Thái xem là cao trọng nhất trong Kinh Thánh; còn nếu Ngài lên án, thì việc giảng dạy về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa trở nên vô hiệu và đồng thời làm cho Ngài trở thành người chống lại luật của người Rôma, vì chỉ có luật của người Rôma mới có thể kết án tử cho người phạm tội, chứ luật của người Do Thái không được phép đó. Chúng ta sẽ chia phản ứng và thái độ của Chúa Giêsu làm hai phần: với các kinh sư và người Pharisêu, và với người phụ nữ ngoại tình.

    Với các kinh sư và người Pharisêu: trước câu hỏi của họ, Chúa Giêsu không cho họ câu trả lời trắng hoặc đen. Câu trả lời của Ngài được tỏ lộ cách tiệm tiến qua các bước sau: (1) thinh lặng lắng nghe và cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất; (2) thay vì trả lời thì đặt một câu hỏi; (3) thinh lặng và cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Chúa Giêsu được trình bày theo kiểu “bánh mì kẹp”: hai miếng bánh mì giống nhau, đó là “hành động” thinh lặng và cúi xuống viết trên đất; và phần được kẹp bên trong [phần quan trọng] là “lời nói,” đó là một câu hỏi. Chính “lời” của Chúa Giêsu làm cho những người kết án thay đổi thái độ và lối sống của mình. Đây chính là sứ điệp chính của Tin Mừng Thánh Gioan: Chúa Giêsu là “Lời” của Chúa Cha, là “Lời nhập thể” để mang lại ơn cứu độ cho muôn người. Chỉ những người lắng nghe Lời mới có khả năng biến đổi. Chúng ta có để Lời Chúa hôm nay biến đổi chúng ta không? Cách cụ thể hơn, chúng ta có để cho Lời Chúa Giêsu biến đổi thái độ “tìm lỗi” và “kết án” người khác không?

    Với người phụ nữ ngoại tình: hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi nghe lời kết án là không nhìn người phụ nữ cách trực tiếp [nhưng với cõi lòng], mà cúi nhìn xuống đất. Hành vi này, theo một số học giả Kinh Thánh, là để tránh cho người phụ nữ một “cái nhìn kết án,” để bà không cảm thấy xấu hổ hơn trước cái nhìn của một người mà dựa vào lời nói của người đó bà sẽ bị kết án và giết chết. Khi mọi người đã bỏ đi, Ngài mới ngẩng lên nhìn người phụ nữ và phá tan “bầu khí nặng nề của sự kết án” bằng một câu hỏi thật hiền dịu: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (Ga 8:10). Và Ngài tiếp với một lời tha thứ và khuyên răn hay đúng hơn là một lời mời gọi: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11). Điều gì làm Chúa Giêsu đối xử nhân hậu với người phụ nữ ngoại tình? Đó chính là “cái nhìn.” Ngài không nhìn người phụ nữ giống như các kinh sự và người Pharisêu. Đối với họ, bà là một “người phạm tội ngoại tình,” còn đối với Chúa Giêsu, bà là “người con hoang đàng trở về” [câu chuyện chúng ta nghe trong tuần trước]. Đó chính là lý do để mở tiệc ăn mừng.

    Thứ hai là các kinh sư và người Pharisêu: chúng ta thấy Thánh Gioan trình bày thái độ bình thường của họ đối với Chúa Giêsu là luôn “thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 8:6). Trong câu chuyện hôm nay, chúng ta có thể nhận ra rằng, người mà các kinh sư và người Pharisêu nhắm đến để tố cáo và kết án không phải là người phụ nữ ngoại tình, mà là Chúa Giêsu. Người phụ nữ ngoại tình có thể được xem là “con vật thế thân.” Nói cách khác, người phụ nữ ngoại tình là “phương tiện” họ sử dụng để đạt đến mục đích, đó là tố cáo Chúa Giêsu. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đối xử với anh chị em của mình không như những nhân vị cần được tôn trọng. Chúng ta đối xử với họ như những phương tiện để thoả mãn những đam mê dục vọng của mình, để đạt đến mục đích của mình. Hãy tôn trọng người khác, nhất là những người thân của chúng ta như những nhân vị chứ không như những “đồ vật”!

    Cuối cùng là người phụ nữ ngoại tình: bà không nói gì. Bà không tìm cách biện minh cho mình. Bà đón nhận mọi sự trong thinh lặng của một cõi lòng “tan nát khiêm cung.” Khi còn lại một mình với Chúa Giêsu, bà chỉ đơn sơ trả lời cách ngắn gọn những gì Chúa Giêsu hỏi bà với một cung giọng ngại ngùng. Từ hình ảnh của người phụ nữ ngoại tình, chúng ta cũng nhìn vào chính mình để có thái độ nào khi trở về với Chúa. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm ở đây là: người phụ nữ ngoại tình sẽ như thế nào sau khi được Chúa Giêsu không kết án và khuyên đừng phạm tội nữa? Bà sẽ phạm tội lại hay không? Điều này chỉ mình chúng ta biết vì câu chuyện của người phụ nữ ngoại tình được tiếp tục viết trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

    Tóm lại, Lời Chúa trong Chúa Nhật V Mùa Chay này mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc đời của mình để nhận ra những công việc vĩ đại Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Những việc vĩ đại đó không chỉ là được ban cho nhà cao cửa rộng hay an khang thịnh vượng, nhưng việc vĩ đại nhất là Ngài đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân, Ngài đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta và phục hồi lại thân phận làm con Thiên Chúa, thân phận cao quý mà chúng ta đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng. Nhìn lại những việc vĩ đại Thiên Chúa đã làm cho mình, chúng ta cùng nhau mượn lời Thánh Vịnh Đáp Ca để diễn tả tâm tình của chúng ta: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.”

    Lm. Anthony, SDB.

    ………………………………………….

    Suy Niệm 3: THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT

    A. DẪN NHẬP

    Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại câu truyện đứa con hoang đàng để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tuần này chúng ta lại được thánh Gioan tông đồ kể lại câu truyện người phụ nữ bị ném đá vì phạm tội ngoại tình và thái độ của Đức Giêsu trước cảnh tượng này. Tất cả đều nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.

    Trong bài Tin mừng hôm nay, các luật sĩ và biệt phái gài bẫy Đức Giêsu để tìm cách bắt Ngài hay ít ra làm cho Ngài mất uy tín hay bớt ảnh hưởng với dân chúng, nhưng Ngài đã xử lý một cách rất khôn ngoan : Ngài không bị mắc kẹt trong việc đòi ném đá hay tha ném đá cho người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, mà còn cho họ một bài học đích đáng : đừng xét đoán, đừng lên án ai, trái lại phải có lòng thương cảm đối với người tội lỗi.

    Chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách : một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng mà lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.

    Hôm nay, Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án,  còn chúng ta là những người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân. Về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.

    B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

    + Bài đọc 1 : Is 43,16-21.

    Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do thái đang bị lưu đầy bên Babylon. Vị tiên tri nói với dân bị lưu đầy nhằm khích lệ họ và mở ra cho họ thấy những viễn cảnh tương lai. Cuộc hồi hương sau cuộc lưu đầy sẽ còn phi thường hơn cuộc xuất hành khỏi Ai cập ; cuộc xuất hành mới sẽ còn tuyệt vời hơn lần đầu.

    Như vậy, bài đọc 1 chứa đựng một bức thông điệp của niềm hy vọng gửi cho người Do thái đang bị lưu đầy : sẽ có một cuộc xuất hành mới, rất vinh quang, đến nỗi nó sẽ đẩy lùi những sự việc vĩ đại của cuộc xuất hành đầu tiên vào bóng tối. Và tất cả những điều này sẽ xẩy ra, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành với dân của Ngài.

    + Bài đọc 2 : Pl 3,8-14.

    Ở đây thánh Phaolô cho thấy đối với ngài việc biết Đức Kitô là thế nào, một khám phá khiến mọi sự còn lại xem ra như không vậy. Biết Đức Kitô là tìm cách chiếm đoạt Ngài sau khi đã được Ngài chiếm đoạt. Là nhờ Ngài mà đạt đến quyền năng phục sinh của Ngài. Bằng cách chấp nhận thông phần vào đau khổ của Ngài.

    Thánh nhân được Chúa mời gọi tiếp tục chạy bộ không ngừng trên đường xuất hành. Để được sống lại với Đức Kitô, ông phải chia sẻ với Ngài sự đau khổ và sự chết, bằng cách liên tục vượt qua chính mình và luôn luôn hy vọng.

    + Bài Tin mừng : Ga 8,1-11.

    Biết Đức Giêsu thương người tội lỗi, nhóm luật sĩ và biệt phái tìm cách gài bẫy Ngài để Ngài mất uy tín với dân chúng. Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, ai bắt được người phạm tội quả tang, kẻ ấy có quyền xét xử tội nhân. Trước khi ném đá người phụ nữ này, họ hỏi Đức Giêsu :”Theo luật Maisen thì người phụ nữ này phải bị ném đá, vậy theo ý Ngài thì người phụ nữ này sẽ bị xử như thế nào” ?

     Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi lại họ, làm cho họ phải thức tỉnh, không dám kết tội người khác :”Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá đi” (Ga 8,7). Đúng là một gáo nước lạnh giội lên đầu họ vì không ai trong bọn họ là người vô tội. Họ lần lượt rút lui trong sự thẹn thùng.

    Qua câu trả lời ấy, Đức Giêsu cho chúng ta biết chỉ mình  Thiên Chúa là người vô tội, là người có quyền xét xử. Nhưng Chúa đã xét xử theo lòng từ bi thương xót. Thay vì luận phạt, Ngài đã cứu chị ta. Một người tuyệt vọng như người phụ nữ ấy, đã tìm được nguồn hy vọng. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng chẳng làm cho ai tuyệt vọng.

    C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

    Tôi không kết án chị đâu

    I. BA HỒI CỦA MỘT VỞ KỊCH 

    Trong Mùa Chay chúng ta hay đọc câu thánh vịnh :”Thiên Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung”.

     Người Do thái vẫn đọc câu thánh vịnh này, nhất là những luật sĩ và biệt phái, nhưng họ chưa hiểu được hết nội dung của nó. Lòng thương xót của Chúa quá thẳm sâu, ai hiểu thấu được. Câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay không phải là đề tài chính, không chủ ý nhằm nói lên tội của con người mà chỉ là cơ hội thuận lợi để nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa và khuyên bảo chị ta đừng phạm tội nữa :”Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị đâu” (Ga 8,11).

    Đọc câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta coi câu truyện này như một vở kịch được chia làm ba hồi. Tất cả đều nói lên lòng thương xót của Chúa.

    1. Hồi nhất : Xử án người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-5).

    Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt 8 ngày sống ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu truyện trong bài Tin mừng.

    Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.

    Tình cờ người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Tất nhiên tội ngoại tình bị lên án, nhưng các người tố cáo thời đó, dù họ là luật sĩ  cũng không yêu sách lắm về cách áp dụng khoản luật trong sách Lêvi dạy ném đá người ngoại tình (Lv 20,10). Tuy thế, các luật sĩ và biệt phái muốn dựa vào hai đoạn văn của lề luật : ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (Lv 20,10) và dạy ném đá người đàn bà ngoại tình với người tòng phạm (Đnl 22,22-24) , để cố ý ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

    Các luật sĩ và biệt phái dựa vào cơ hội này để thử thách Đức Giêsu (Ga 8,3-6). Họ thật thâm độc,  họ đặt Đức Giêsu và thế gọng kìm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ném đá, Ngài sẽ bị kẹt vào hai điều : trước hết, vi phạm luật của chính quyền Rôma, chỉ chính quyền Rôma mới có quyền xử tử hình mà thôi. Thứ đến, Ngài mất uy tín, và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Maisen, không ném đá người phụ nữ ngoại tình, tức là Ngài ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một Đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được ?

    1. Hồi hai : Đức Giêsu với việc xử án (Ga 8,6-9).

    Đứng trước câu hỏi hóc búa này, Đức Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Ngài không trả lời mà chỉ ngồi mà vẽ xuống đất cái gì đó. Vậy Ngài viết những gì ? Theo thánh Giêrônimô, Đức Giêsu viết tội những kẻ đứng tố cáo.  Còn bản Tân ước tiếng Amêri dịch như sau :”Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ trên mặt đất”.

    Ý ở đây là Đức Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphein” được dùng ở  đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Đức Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.

    Dầu vậy, các luật sĩ và biệt phái vẫn một mực đòi hỏi Đức Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Ai có thể là người vô tội ? Trong thư thánh Gioan Tông đồ Ngài dạy rằng :”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 8,7).

    Người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì quá rõ ràng. Còn những luật sĩ và biệt phái đang tố cáo người phụ nữ với hậu ý rất thâm độc và một lòng thù ghét Đức Giêsu, họ đang tìm cách giết Ngài. Tội của họ còn lớn lao hơn tội người phụ nữ ! Nhưng họ lại tự lừa dối mình là những người đạo đức. Chúa đã vạch tội họ ra  cho thấy rằng làm sao một người tội lỗi lại lên án một tội nhân khác được ?

    Cúi xuống và viết tội là Chúa nhìn thẳng vào quá khứ và cuộc đời tội lỗi của những người đang tố cáo. Chúa hỏi :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ ném đá trước đi”. Câu nói đó chắc là đã khơi động lương tâm các người tố cáo, già thì nhiều tội hơn, lại bị cắn rứt nhiều hơn nên đã tự biết mình rút lui trước, cho đến người cuối cùng.

    1. Hồi ba : Tha án cho người phụ nữ (Ga 8,10-11). 

    Sau khi họ đã rút lui hết, chỉ còn lại có một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Ngài mới hỏi chị ta :”Không còn ai lên án chị sao” ? Chị ta đáp:”Thưa không”. Ngài phán :”Ta cũng không lên án chị. Hãy đi làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).

    Khi bàn về câu truyện này, thánh Augustinô dùng hai từ bằng tiếng La tinh rất khéo là  “Miseria và misericordia” : bây giờ chỉ còn lại một nỗi khổ đau tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại , bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”(Ga 3,17).

    II. BÀI HỌC TỪ MỘT VỞ KỊCH

    1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót và tha thứ 

    Qua câu truyện này, chúng ta mới thấy rõ tâm tình của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là lòng thương xót đối với tội nhân. Đứng trước lỗi lầm của con người, Đức Giêsu luôn có lòng thương cảm.  Ngài không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người.

    Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu biết những tình huống đã dẫn chị ta đến cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị.  Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn lòng kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án càng chứng tỏ mình sạch tội, vô tội.

    Vì thế cần phải biết hồi tâm. Bằng chứng: chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lại lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá trước đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình.

    Chúng ta đều đã phạm tội nên đáng chịu hình phạt ném đá như người phụ nữ kia, nhưng Chúa luôn thương xót chúng ta, không nỡ đoán phạt chúng ta. Tiên tri Ôsê (2,4-25) đã so sánh dân Israel với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động  “đáng điếm”. Mọi sự lìa bỏ Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình.  Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Chúng ta là dân Israel mới, cũng như người phụ nữ ngoại tình đáng bị trừng phạt nhưng Thiên Chúa luôn xót thương và tha thứ.

    Truyện : Hoàng đế Napoléon và lòng thương xót.

    Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ với hoàng đế :

              – Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
    Hoàng đế Napoléon trả lời :
    – Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
    Bà mẹ nói :
    – Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
    Hoàng đế Napoléon đáp :
    – Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
    Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
    (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 192)

    1. Đừng xét đoán và lên án ai

    Qua câu trả lời của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội  mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác. Ngài đã cảnh cáo chúng ta :”Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị xét đoán”(Mt 7,1). Khi nhìn vào người khác chúng ta chỉ biết được cái vỏ bề ngoài, còn cái ruột người khác thì làm sao biết được. Vì thế người ta mới nói :

                                          Dò sông dò biển dễ dò,
                                 Nào ai lấy thước mà đo lòng người.

    Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là chúng ta đòi hỏi người khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phải. Không thể dựa trên kiến thức để xét đoán kẻ khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để xét đoán, nhưng không ai trong chúng ta  là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, lý do hết sức đơn giản là không ai lành thánh đủ để đoán xét kẻ khác.

    Thích xét đoán và kết án người khác là cái chuyện trầm kha của con người. Không ai nghĩ đến cái xấu của mình mà chỉ nghĩ đến cái xấu của người khác. Chính vì thế ông bà tổ tiên chúng ta  đã để lại một lời than trách nhắc nhở chúng ta đừng xét đoán người khác vì mình cũng có tội :

                                          Chân mình thì lấm lê mê
                                   Lại cầm bó đuốc mà rê chân người. 

    Truyện : Không ai là người vô tội.

    Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với người cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi xử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một  hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này  cho nhà vua.

    Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi anh ta lưỡng lự trong việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói :

              – Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.

              Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói :
    – Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ  ạ ?
    Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng :
    – Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.
    Sau đó, người ăn trộm quay sang người giữ kho tàng của nhà vua và nói :
    – Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ ?
    Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối :
    – Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
    Và cứ như thế, cuối cùng chỉ còn lại có một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói :
    – Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này ?
    Nhưng nhà vua nói :
    – Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
    Sau đó, người ăn trộm nói :
    – Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
    Nhà vua tha thứ cho anh ta.

    Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích  (Flor McCarthy, sđd, tr 193-194).

    1. Phải biết thông cảm và tha thứ 

    Điều khác nhau căn bản giữa Đức Giêsu và nhóm Do thái là họ muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy họ chỉ muốn ném đá người phụ nữ này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Đức Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Đức Giêsu nhìn tội nhân với sự thương cảm phát xuất từ tình yêu thương, còn các luật sĩ và biệt phái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc  coi mình là thánh thiện.

    Đức Giêsu thực sự có lòng thương xót đối với tội nhân. Đây là một thứ tình cảm đặc biệt ngoài “thất tình” mà chúng ta vẫn biết : hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Vậy thương xót là gì ?

    Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót) Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.

    Khi đó chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy phải làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C , tập 1, tr 198).

    Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ, tạo điều kiện và khuyến khích họ sống tốt lành hơn.

    Truyện : Tha thứ cho người vợ.

    Câu truyện xẩy ra ở một hải đảo của nước Ý. Tại đây người ta qui định : Nếu một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người ta sẽ buộc vào cổ người đàn bà này một tảng đá lớn, và quẳng xuống biển cho chết chìm.

    Vào một ngày kia, một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội này. Bà đã bị kết án tử hình theo như luật định. Nhưng đến ngày xử mà người chồng vẫn còn đánh bắt cá ngoài khơi, khiến tòa án phải gia hạn thêm mấy ngày nữa. Người ta đã phải gia hạn nhều lần mà vẫn không thấy anh chồng trở về. Cuối cùng họ quyết thi hành án tử hình cho chị vợ, cho dù chồng có mặt hay không. Họ định ngày xử án dùng thuyền đưa chị ra vùng nước sâu, cột một hòn đá vào cổ chị ta, trước khi quăng chị ta xuống biển cho chết chìm.

    Nhưng thật lạ lùng, ngày hôm sau mọi người đều kinh ngạc khi thấy chị ta xuất hiện ở trong làng. Thì ra, ngay từ đầu, nhờ được hai người bạn thân giúp đỡ, người chồng đã hay biết mọi sự. Cho dù bị vợ phản bội, nhưng người chồng vẫn luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội bất trung của vợ. Anh và mấy người bạn kia đã đặt ra một kế hoạch hoàn hảo để giải cứu người vợ. Do đó, thay vì sớm xuất đầu lộ diện để tham gia xét xử, anh ta đã lẩn trốn trong rừng một thời gian để làm kế hoãn binh. Đến ngày thi hành án, anh bí mật bơi lặn đến núp dưới một tảng đá ngầm, ngay tại nơi mà người chị vợ sẽ bị quăng xuống biển. Khi chị vợ bị quăng xuống, thì người chồng đã mau tiến lại gần, dùng dao cắt đứt sợi dây cột đá và bí mật đưa vợ đi đường tắt về nhà.

    1. Hãy đi xưng tội

    Mọi người đã phạm tội, cần phải ăn năn sám hối và làm hòa với Chúa. Cách giao hòa với Chúa hay nhất là đi xưng tội, đặc biệt cho những người phạm tội trọng. Những người phạm tội trọng muốn được tha tội, trong những điều kiện bình thường, chỉ còn cách duy nhất là đến tòa giải tội. Những người phạm tội nhẹ, tuy không buộc phải xưng tội, có nhiều cách để được tha, nhưng việc xưng tội sẽ đem lại cho họ được nhiều lợi ích.

    Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi bí tích giải tội là con đường thanh tẩy và kết hợp với Đức Kitô. Ngài nhận định rằng bí tích Giải tội có mục đích không chỉ tha tội nhưng còn và trên hết dẫn đưa người tín hữu vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Kitô. 

    Khi tiếp kiến với các Linh mục và chủng sinh đang tham dự một khoa học về “internal forum” do tòa Ân giải tổ chức, ngài bầy tỏ suy tư  về những phương diện chính yếu của bí tích này :”Hoa trái của việc xưng tội”không những chỉ là tha thứ tội lỗi, điều cần thiết cho bất cứ ai đã phạm tội” nhưng còn mang lại “sự phục sinh thiêng liêng” thực sự, một sự phục hồi phẩm giá và những điều thiện hảo cho sự sống của con cái Thiên Chúa, mà điều quí giá nhất là “Tình bằng hữu với Thiên Chúa”. 

    Do dó, “sẽ ảo tưởng cho việc nên thánh, tùy theo ơn gọi Chúa ban cho mỗi người, mà không thường xuyên và sốt sắng lãnh nhận bí tích sám hối và thánh hóa này” như Đức Giáo hoàng đã khẳng định.

    Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô với việc xưng tội.

    Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhường và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi :

              – Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con ?
    – Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
    – Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
    – Không, Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
    – Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà ?
    – Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalena đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
    – Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con ?
    – Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
    Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi :
    – Cha khóc à ? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá ?
    – Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.

    Thánh nhân biết rõ phép giải tội không phải chỉ là che giấu tội, phủ kín tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.

    Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt

                                                                    

    ……………………………….

    Suy Niệm 4: Kẻ phạm tội phải xót thương

     

    Quyền lực tự bản chất không hoàn toàn xấu xa nhơ bẩn! Trong phạm vi tôn giáo cũng như xã hội chúng ta luôn cần một số người nắm giữ những chức vụ quan trọng và dựa vào quyền lực do chức vụ mà họ đảm nhận, họ có thể điều khiển, lèo lái tất cả để đời sống đạo cũng như đời thêm phần tốt đẹp. Họ có thể quyền tận dụng mọi khả năng hợp pháp để dò xét, phán đoán và cuối cùng đưa ra những quyết định buộc mọi người phải thi hành. Nhưng nắm giữ quyền lực trong tay cũng có nghĩa là phải gánh vác một trọng trách nặng nề. Mục đích tối hậu của các chủ trương nhằm bảo đảm an ninh trật tự, duy trì công lý trong xã hội và mặt khác nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển cuộc sống chung trong mọi lãnh vực. Trên thực tế, từ khi con người nắm giữ quyền lực trong tay thì nguy cơ lạm dụng quyền lực cũng bắt đầu hình thành. Bằng chứng cụ thể là những chế độ độc tài dùng bạo lực đàn áp kẻ khác; tình trạng lạm quyền, hối lộ, tham nhũng, …

    Một trường hợp điển hình được thánh sử Gioan tường thuật. Trên cơ bản thì đây là một sự kiện rõ ràng và đơn giản đối với những kinh sư và người Pharisêu: Một người đàn bà bị bắt quả tang đang ngoại tình sẽ bị ném đá. Luật Môsê đã quy định rõ ràng. Nhưng ngay từ đầu người đàn bà này không đóng một vai trò quan trọng trong màn kịch mà  họ muốn diễn. Đích điểm mà họ nhắm tới chính là Đức Giêsu và phản ứng của Ngài. Người đàn bà chỉ là miếng mồi nhử để họ tìm ra sơ hở và có cớ bắt bẻ Ngài. May mắn thay phiên toà ngắn ngủi như họ dự định lại có một kết cục ngoài ý muốn. Đống đá vẫn còn y nguyên. Không ai có can đảm tiến đến giơ tay cầm đá để ném tội nhân. Những người tự nhận mình là chính nhân quân tử đột nhiên cảm thấy bẽ bàng xấu hổ, tự động rút lui! Thật giống như trong chuyện thần thoại!

    Tội bắt buộc phải gớm ghét nhưng kẻ phạm tội phải xót thương! Đó chính là cẩm nang dạy cho chúng ta biết phải có thái độ nào khi phải đối diện với những người trên vai chồng chất gánh nặng do tội lỗi gây ra. Chúng ta có thể cảm nhận được phần nào qua đôi lời của Đức Giêsu. Ngài nói một lời quan trọng làm cho người Pharisêu phải thức tỉnh từ trong thâm tâm: “Ai trong các ông sạch tội, thí cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”  Lời này có sức lay động, bởi vì Đức Giêsu kêu gọi chúng ta nhận thức tình trạng thực sự của bản thân mình, nhận biết khả năng của mình cũng như những yếu đuối khuyết điểm. Chẳng cần mất nhiều thì giờ suy nghĩ chúng ta có thể tự thú nhận: Tội lỗi không ở đâu xa nơi người khác, mà là nơi chính tôi! Đức Giêsu rất khéo léo dẫn dụ. Ngài không kết tội, cũng không vạch lá tìm sâu. Ngài không đối xử với họ giống như họ đã đối xử với người đàn bà ngoại tình. Qua một vài lời khuyến dụ ngắn ngủi Ngài đã giúp chúng ta nhìn sự việc dưới một góc độ khác: Chính khi chúng ta nhận thức mình là ai, thì chúng ta sẽ có một thái độ đúng đắn đối với kẻ khác. Chỉ khi chúng ta ý thức được tình trạng tội lỗi yếu đuối của bản thân, chúng ta mới đủ sáng suốt phán đoán và cảm nhận được hoàn cảnh của người chúng ta gặp gỡ hay phải đối diện.

    Nhiều người thắc mắc tự hỏi rằng, Đức Giêsu sẽ có thái dộ nào đối với người đàn bà ngoại tình sau khi tất cả tìm đường thối lui! Thánh Gioan không tường thuật về những diễn biến xảy ra sau đó nhưng chúng ta có thể tiên đoán rằng: Người đàn bà cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm không thể nào so sánh với trọng lượng của đống đá còn nằm đó. Chúa đã biến đổi đời con qua cuộc gặp gỡ bất ngờ với Đức Giêsu. Đây cũng là kinh nghiệm dạy chúng ta biết nhìn xa trông rộng hơn: Luật pháp dĩ nhiên đã được quy định và buộc mọi người phải chấp hành, nhưng luật pháp không phải là tiếng nói sau cùng, là thước đo quyết định tất cả. Trong mắt của Đức Giêsu chúng ta đáng giá và quan trọng hơn những lỗi lầm chúng ta đã xúc phạm. Ngài tin rằng chúng ta có thể sửa đổi. Giống như Phêrô và người đàn bà ngoại tình, từ ánh mắt của Đức Giêsu chúng ta sẽ cảm nhận một nguồn sinh lực giúp chúng ta làm lại cuộc đời. Câu chuyện thánh Gioan tường thuật giúp chúng ta cảm nhận sâu xa hơn mỗi lần chúng ta đọc Kinh Lạy Cha: “… và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con …

    Lm. Phêrô Trần Minh Đức

     

     

    BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ

    VIDEO CLIPS

    THÔNG TIN ƠN GỌI

    Chúng tôi luôn hân hoan kính mời các bạn trẻ từ khắp nơi trên đất Việt đến chia sẻ đặc sủng của Hội Dòng chúng tôi. Tuy nhiên, vì đặc điểm của ơn gọi Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt, chúng tôi xin được đề ra một vài tiêu chuẩn để các bạn tiện tham khảo:

    • Các em có sức khỏe và tâm lý bình thường, thuộc gia đình đạo đức, được các Cha xứ giới thiệu hoặc công nhận.
    • Ứng Sinh phải qua buổi sơ tuyển về Giáo Lý và văn hoá.

    Địa chỉ liên lạc về ơn gọi:

    • Nhà Mẹ: 115 Lê Lợi - Lộc Thanh - TP. Bào Lộc - Lâm Đồng.
    • ĐT: 0263 3864730
    • Email: menthanhgiadalatvn@gmail.com