spot_img
Thêm

    CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH

    BÀI ÐỌC I: Cv 5, 27b-32. 40b-41

    Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.

    BÀI ÐỌC II: Kh 5, 11-14

    Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”. Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.

    PHÚC ÂM: Ga 21, 1-19

    Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay. Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại. [Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.

    Suy Niệm 1: LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH, BẤT CHẤP MỌI TRỞ LỰC

    Có thể hình dung câu chuyện trên bờ Biển Hồ (x. Ga 21,1-14) như sau: Mười một ông, nhưng ở đây chỉ có bảy. Vắng bốn người, họ đi đâu nhỉ? Thầy sống lại và hiện ra vài lần, nhưng hiện ra rồi biến đi, phần lớn thời gian các ông không có Thầy, chỉ xúm xít với nhau… Rồi sự xúm xít ấy cũng lỏng lẻo dần… Trống trải, đợi chờ, cũng uể oải… Một cảm giác bất quyết của những kẻ chẳng nắm chắc mình sẽ làm gì tiếp theo!…

    Ồ, trước mắt là phải làm gì đó, kiểu ‘bói rẻ còn hơn ngồi không’, hơn nữa cũng phải kiếm ăn qua ngày chứ!… Thế là Simon Phêrô đề xướng việc đi đánh cá, và sáu bạn kia mau mắn hưởng ứng. Khổ nổi, thất bại thê thảm, dù đa số trong nhóm từng là những người đánh cá chuyên nghiệp ngay tại chính vùng biển này!… Suốt cả đêm chẳng được gì cả. Ba năm theo Thầy, nay Thầy trôi tuột, khi ẩn khi hiện; còn tay nghề của mình thì cũng xuống cấp trầm trọng rồi sao?… Coi chừng – như người ta nói – mất cả chì lẫn chài!…

    Thế rồi Thầy lại xuất hiện. Ban đầu không nhận ra, nhưng sau đó các ông nhận ra. Một mẻ cá lớn lúc này cũng không còn mấy ý nghĩa, vì mục tiêu của các ông đã chuyển từ biển lên bờ! Trên bờ có sẵn cá và bánh, với lửa than… Nhưng quan trọng hơn, các ông lên bờ vì trên bờ có Thầy! Thầy trò dùng bữa với nhau, không nói nhiều, nhưng tâm tình đầy ắp… Một câu chuyện lành, với cái kết có hậu!

    Các ông được củng cố trong việc xác lập mục tiêu là chính Thầy, là dành phần đời còn lại để rao giảng và làm chứng về Thầy, để đánh bắt trên bờ’, nhất là sau khi nhận lãnh Thánh Thần… Thầy là mục tiêu, là lẽ sống, nên các ông rao giảng về Thầy bất chấp mọi trở lực. Niềm tin mạnh như vậy tự nó là điều nguy hiểm đối với những quyền lực có xu hướng toàn trị, muốn kiểm soát mọi mặt đời sống dân chúng, kể cả niềm tin tôn giáo – vì thế bách hại xảy ra rất sớm và tiếp tục trong dòng lịch sử. Đây là câu chuyện không lành cho các thế hệ môn đệ thừa sai của Chúa (x. Cv 5, 27b-32.40b-41).

    Bị bách hại là chuyện không lành, nhưng các môn đệ thừa sai vẫn kiên tâm bền chí, tin rằng Chúa Phục sinh đã chiến thắng đầu não của ác thần. ‘Phản động’ đối với công cuộc của Chúa là giơ chân đạp mũi nhọn, như lời Chúa cảnh cáo Sa-ul thành Tácxo. Đáp ca (Tv 29) và Bài đọc 2 (Kh 5,11-14) âm vang niềm tin chiến thắng này: “Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con”… “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”.

    Chúng ta đang ở trong lịch sử Giáo hội. Đó là Giáo hội của Chúa Phục sinh. Và đó là lịch sử loan báo Tin Mừng… cho đến tận thế!

    Lm. Giuse lê Công Đức, PSS.

    ……………………………

    Suy Niệm 2: HÃY CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY

    A. DẪN NHẬP

    Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh. Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới : trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.
    Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).
    Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.
    Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta  cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù chúng ta không cảm thấy.

    B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

    +  Bài đọc 1 : Cv 5,27-32.40-41.

    Sau khi chữa lành một số bệnh nhân, các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô trả lời cách quả quyết :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô  có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.

    Nhưng vị thủ lãnh các Tông đồ luôn kiên quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu ; các ngài vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các ngài.

    +  Bài đọc 2 : Kh 5,11-14.

    Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ, trong đó vũ trụ  hiệp cùng các thiên thần ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như vị vua và Thiên Chúa : “Xin chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn đời”.

     

    +  Bài Tin mừng : Ga 21,1-19.

    Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ. Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề :”Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên khởi về sau đã phải trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy mình.

    Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.


    C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

     Sứ mệnh làm chứng cho Chúa

     I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG

    1. Tâm trạng của các môn đệ

    Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng của họ lúc này trở nên khó tả : buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa và để kiếm gì để ăn chứ ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết được gì.

    1. Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba

    Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là : sự bình an, sứ mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga 19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy. Chính Tôma, tuyên xưng :”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem ra hai ông Phêrô và Gioan  tìm kiếm  điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới : tất cả qui về tập thể mà các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự trong hậu trường.

    1. Một mẻ lưới kỷ lục

    Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông  câu hỏi thường thức  như người ta quen hỏi các người đi đánh cá : Có kiếm được gì ăn không ? Các ông đồng thanh trả lời :”Thưa không”. Ngài bảo họ :”Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp của các ông  vì các ông đã thất bại suốt một đêm trắng.

    Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được 153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh giáo hữu đã chinh phục cho Chúa  bằng lời giảng dạy của các Tông đồ.

    Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là  các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các Tông đồ bắt được rất nhiều cá  chứ không nhất thiết là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.


    II. PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘI
     

    1. Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh 

    Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Đức Giêsu muốn  là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô – vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi :”Phêrô, con có yêu mến Thầy không” ?

    Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta  dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.

    Chính vì thế, Đức Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ  ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu – Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.

    1. Con người thủ lãnh Phêrô

    * Yêu Chúa tận tình

    Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc 1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô, không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới, một tạo vật mới, rất can trường.

    Ông rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng:”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống. Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không ?

    * Yếu đuối và gan dạ 

    Chúng ta thấy trong con người Phêrô có pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ông yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh hưởng đến ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ông đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ông nhận ra rằng ông không được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này, thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.

    Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ông nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình, thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng.

    Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này đã loại trừ nơi ông  thói tự hào  và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu đuối của người khác (McCarthy).

    1. Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh 

    Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó.  Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ông vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng  sống trong các khu ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu  đã trở thành miếng mồi ngon  cho lũ sư tử đói khát vồ xé,  một số khác thì bị chết  trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy hiểm ấy, cộng đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.

    Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ông nhận ra đó là Đức Giêsu, ông lên tiếng hỏi :”Thầy đi đâu” (Quo vadis) ? Đức Giêsu đáp :”Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa. Ông bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng, ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.

    III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO CHÚA 

    1. Phải biết nhận ra Chúa 

    Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối bỏ ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không  do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa.

    Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…

    Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức tìm Chúa.  Nhưng trong thực tế, rất nhiều người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.

    Truyện : Chỉ vì vô tình.

    Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông : Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế.  Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Ấn giáo cho biết nguyên do nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo :”Các tội đã và đang xẩy ra  trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích :”Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”.

    Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có  thể là Đấng Cứu Thế.

    Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích trong Món quà Giáng sinh).

    1. Làm cho nhiều người trở lại với Chúa 

    Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao nhao hỏi :”Chúng tôi phải làm gì” ? Phêrô bảo :”Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ được ơn Chúa Thánh Thần”.

    Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng…

    Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường  đi Emmau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.

    Truyện : Gương bày lôi kéo.

    Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn và đánh động : họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.

    1. Phải dựa vào quyền năng Chúa 

    Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi trốn tránh.

    Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm(Cv 5,29). Là chứng nhân, các Tông đồ phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.

    Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đức Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.

    Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân : số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ : 000.0001.

    Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ : 1.000.000.

    Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).

    Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt

    …………………………..

    Suy Niệm 3: Cuộc gặp gỡ khắc cốt ghi tâm

    Dân gian truyền tụng rằng: “Mọi chuyện tốt đẹp đều là ba”. Ba điều ước trong truyện thần thoại hoặc những truyện tương tự chúng ta đã được nghe, chẳng hạn như truyện ba hoàng tử phải vượt qua ba thử thách trước khi tìm thấy kho tàng và giải thoát công chúa. Nhà vua muốn biết ai trong ba người tài đức vẹn toàn có thể kế thừa ngôi báu. Họ lần lượt ra đi và người cuối cùng và trẻ nhất là người giải mã được ba đề tài và trở về với một chum nước là biểu tượng cho sự sống. Con số ba nghe có vẻ đơn giản nhưng lại lột tả được sự trọn vẹn và hoàn hảo. Và chuỗi con số 3 chúng ta có thể tuỳ ý bổ sung vào. Để làm linh mục bản thân tôi cũng cần ba chặng đường. Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chặng đầu tiên. Sau đó gần 10 năm sống ở Thanh xuân mà không biết ngày mai sẽ ra sao? Khi qua Đức tuy tương lai đã rộng mở nhưng con đường trước mặt có thể ví như đường đèo quanh co tầm nhìn ngắn hạn. Gần 30 tuổi tôi lại trở về mái trường để lấy lại bằng tú tài và sau đó học thần học. Số tôi may mắn nên sau 30 năm tôi được thụ phong linh mục.

    Con số 3 đã để lại nhiều dấu vết đầy ẩn tượng trong Kinh thánh, đặc biệt là trong Tin mừng. Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor và biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Ông Phêrô muốn dựng ba lều khi chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong Vườn cây Dầu Đức Giêsu trở lại ba lần sau khi đi cầu nguyện một mình và cả ba lần Ngài đều thấy ba môn đệ đang ngủ. Ông Phêrô chối Thầy ba lần và sau lần thứ ba gà liền gáy. Trong đoạn Tin mừng hôm nay thánh sử Gioan ghi chú: “Đây là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.” Lần đầu tiên xảy ra trong ngày lễ Phục sinh. Đức Giêsu còn ban Thánh Thần xuống trên các môn đệ, một biến cố chúng ta mừng kính trong dịp lễ Hiện xuống. Tuy vậy tình trạng bất ổn vẫn còn tồn tại trong cuộc sống của các môn đệ. Lần thứ hai có sự hiện diện của ông Thôma và Đức Giêsu đã cho họ xem những dấu vết trên thân thể của mình. Lần thứ ba xảy ra trong một bầu không khí đặc biệt. Một mặt đầy mầu sắc đáng tin cậy. Các ông đã trở về quê hương xứ sở của mình, đã bắt đầu lại với những công việc thường nhật, thử lại tay nghề đánh bắt cá. Họ nếm mùi thất bại như chúng ta đã nghe. Mặt khác là vẻ xa lạ! Đức Giêsu xuất hiện như một khách vãng lai, hơn nữa lại còn là người đang đói. Một chi tiết quan trọng gây bất ngờ cho chính chúng ta. Các ông đã đồng cam cộng khổ với Đức Giêsu dòng dã suốt ba năm nhưng chỉ sau mấy ngày họ giống như bị một vật gì đó che mờ không nhận ra Ngài đang đứng kề bên. Chỉ có ông Gioan sớm nhận ra Ngài, những người còn lại vẫn bán tín bán nghi! Lòng tin vào Đấng Phục sinh quả thực cẩn có thời gian để phát triển và trưởng thành. Và lần thứ ba này đúng là một cuộc gặp gỡ đáng khắc cốt ghi tâm. Các môn đệ cảm thấy ê chề vì thất bại, đuối sức và nản lòng. Họ đã vất vả tốn công vô ích. Nhưng chỉ vì một lời nói của người khách lạ các ông có đủ can đảm để thử vận may và lần này thành công đầy bất ngờ.

    Biến cố Phục sinh một cách đặc biệt nào đó có liên quan đến cuộc sống của chúng ta. Đức Giêsu sẽ gặp gỡ chúng ta ở những nơi cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Và chúng ta nhận biết Đức Giêsu khi chúng ta thể hiện lòng bác ái với tha nhân. Cả khi mọi cố gắng của chúng ta thành công dã tràng, Đức Giêsu muốn trở thành nguồn trợ lực cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta không thể nhận ra Ngài qua dáng vẻ của con người. Ngài chính là sức mạnh khi chúng ta cố gắng thắng vượt khó khăn và kiên nhẫn trung thành để cuối cùng dành được thắng lợi. Ngài sẽ bổ sức cho chúng ta sau những vất vả đưa con thuyền vào bến bình yên. Thánh lễ mà chúng ta mỗi ngày tham dự là những lúc bồi bổ giúp chúng ta được tăng sức trong cuộc sống hằng ngày, không chấp nhận bỏ cuộc khi muốn trở thành những ngư phủ chài lưới người và khi vào bờ có thể nhận ra Đức Giêsu đang đứng đó.

    Lm Phêrô Trần Minh Đức

                                                                                

    BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ

    VIDEO CLIPS

    THÔNG TIN ƠN GỌI

    Chúng tôi luôn hân hoan kính mời các bạn trẻ từ khắp nơi trên đất Việt đến chia sẻ đặc sủng của Hội Dòng chúng tôi. Tuy nhiên, vì đặc điểm của ơn gọi Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt, chúng tôi xin được đề ra một vài tiêu chuẩn để các bạn tiện tham khảo:

    • Các em có sức khỏe và tâm lý bình thường, thuộc gia đình đạo đức, được các Cha xứ giới thiệu hoặc công nhận.
    • Ứng Sinh phải qua buổi sơ tuyển về Giáo Lý và văn hoá.

    Địa chỉ liên lạc về ơn gọi:

    • Nhà Mẹ: 115 Lê Lợi - Lộc Thanh - TP. Bào Lộc - Lâm Đồng.
    • ĐT: 0263 3864730
    • Email: menthanhgiadalatvn@gmail.com