spot_img
Thêm

     CHÚA NHẬT 3MC/ C

    BÀI ĐỌC I: Xh 3, 1-8a. 13-15

    Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi”. Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Môsê! Môsê!” Ông thưa: “Dạ con đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp”. Môsê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”. Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: “Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: “Tên Người là gì?”, con sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Đấng Tự Hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Đấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em”. Thiên Chúa lại nói với Môsê: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: “Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em”. Đó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.

    BÀI ĐỌC II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12

    Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa. Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.

    PHÚC ÂM: Lc 13, 1-9

    Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”. Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: “Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”.

    Suy Niệm 1: THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ KIÊN NHẪN, NHƯNG TA PHẢI TRỞ VỀ…

    Tiếng gọi dành cho Môsê gắn với một mặc khải tuyệt đẹp về tấm lòng thương cảm của Thiên Chúa trước những nỗi thống khổ của dân Ngài: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật” (x. Xh 3,1-8a.13-15)… Hãy để ý các động từ: Chúa đã THẤY, đã NGHE, đã BIẾT, đã XUỐNG để CỨU, và ĐƯA dân ra khỏi cảnh ấy!… Không còn nghi ngờ gì về tấm lòng quan tâm rất thực và rất cụ thể của Thiên Chúa, như lời Thánh vịnh Đáp ca: “Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót” (x. Tv 102)…

    Thế là dân Chúa được Môsê lãnh đạo vào cuộc Xuất hành, ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai cập, vượt Biển Đỏ, đi qua sa mạc 40 năm để tiến vào Đất Hứa. Chính trong cuộc hành trình lịch sử này, đoàn dân ấy đã bộc lộ tất cả những điểm yếu của mình, được Chúa uốn nắn, giúp họ nhận thức chính Chúa và về bản thân họ, trưởng thành hơn trong tương quan với Chúa và với nhau… Thông điệp căn bản cho họ: Thiên Chúa của họ rất thương xót và rất kiên nhẫn, nhưng họ không được ỷ lại, mà phải trở về với Ngài khi lỡ bội bạc…

    Câu chuyện Phúc Âm cũng khắc hoạ đúng thông điệp ấy (x. Lc 13,1-9). Hai biến cố thời sự về những người Gali lê bị Philatô sát hại và về mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết được Chúa Giêsu giải thích là tiếng Chúa thúc giục mọi người ăn năn hối cải. Chúa thúc giục và Chúa kiên nhẫn đợi chờ, vì Chúa biết sức ì của ta, biết ta cần thời gian – đây là thông điệp từ dụ ngôn cây vả ba năm không sinh trái. Nhưng ta không thể bắt Chúa đợi chờ mãi mãi được!

    Cuối cùng, đoạn Thư 1Cr 10,1-6.10-12 của Bài đọc II âm vọng vẫn một sứ điệp hoán cải ấy. Thánh Phaolô nhắc lại hành trình sa mạc của dân Chúa ngày xưa dưới sự lãnh đạo của Môsê, và lưu ý rằng các Kito hữu cần biết rút kinh nghiệm: “Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng”. Đặc biệt, thánh Tông Đồ cảnh báo: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã!”…

    Như vậy, tiếng gọi sám hối và hoán cải của Mùa Chay tiếp tục vang vọng giục giã chúng ta. Thiên Chúa đầy lòng xót thương và kiên nhẫn, nhưng ta phải trở về!

    Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.

    …………………………………………

    Suy Niệm 2: Chuyến xuất hành định mệnh

    Chuyến xuất hành ra ngoại quốc năm 1986 là một trải nghiệm cơ bản quan trọng nhất giúp thay đổi vận mệnh của cuộc đời tôi. Sau bốn đêm ba ngày ghe của tôi được con tàu Cap Anamur II vớt. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn đồng hành cùng tôi, là Đấng đưa tôi đến bến bờ tự do. Và cũng là lần đầu tiên tôi nhận biết đức tin thực sự đối với tôi có ý nghĩa như thế nào. Tin không phải chỉ là tin những tín điều của Giáo hội. Tin có nghĩa là đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa với tất cả con người và cuộc sống của mình. Tin đối với tôi là một thứ gì đó tối ư quan trọng mang tính chất quyết định tất cả: một mối quan hệ riêng tư của bản thân mình với Thiên Chúa, là thứ xác định và vận hành cả cuộc đời tôi, là chiếc neo giữa bao phong ba bão táp và là hải đăng giúp đưa con thuyền vào bến bờ bình yên. Chính vì thế tôi chọn châm ngôn cho cuộc đời linh mục: „Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi“ (Gr 1,8).

    Đối với tôi, đây không chỉ là những hồi niệm về quá khứ. Tất cả vẫn còn hiện hữu và sống động mỗi khi tôi đọc sách Xuất hành. Cuộc xuất hành từ Ai cập là một trải nghiệm cơ bản của dân Do thái. Trải nghiệm này là đức tin và ý thức hệ luôn sống động trong dòng lịch sử của dân Do thái. Cuộc xuất hành được trích dẫn cả trăm lần trong Cựu ước và còn loan truyền đến chúng ta cho đến ngày nay. Bài đọc hôm nay phản ảnh sự khởi đầu của trải nghiệm trong cuộc xuất hành và cũng mang một ý nghĩa quan trọng đối với người Kitô hữu. Tác giả đã mô tả về sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài luôn đồng hành và có liên quan mật thiết đến cuộc đời của mỗi người trong chúng ta. Tác giả cũng quảng bá và mời gọi chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa là Đấng mà dân Do thái đã nhận biết và trải nghiệm qua cuộc xuất hành từ Ai cập.

    Tất cả bắt đầu với một trải nghiệm của ông Môsê. Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa giữa bụi cây. Ông nhìn thấy bụi cây cháy bừng nhưng không bị thiêu rụi. Thiên Chúa còn giúp ông nhận biết khi xác nhận: „Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp“. Nhưng ông vẫn tò mò muốn biết rõ hơn danh hiệu của Thiên Chúa. Thiên Chúa tự mặc khải tên mình dưới hình thức mới: „Ta là Đấng Hiện hữu“. Niềm vui nỗi buồn của dân Do thái cũng chính là niềm vui nỗi buồn của Đấng họ tôn thờ. Ngài đã giang tay ra giải thoát họ và đưa dẫn họ về đất hứa.

    Danh hiệu của Thiên Chúa được đong đầy một cách ngoạn mục nơi Đức Giêsu. Ngài là „Emmanuel“, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đã mặc xác phàm và là một người giữa chúng ta qua Đức Giêsu. Trên thập giá Ngài đã đón nhận số phận của con người cùng với những yếu đuối, tội lỗi và cuối cùng là sự chết của chúng ta. Ông Môsê được Thiên Chúa tuyển chọn mặc dù ông không phải là người tài ba, ăn nói lưu loát. Đức Giêsu là Môsê mới. Ngài không những dẫn đưa dân Chúa khỏi cảnh khốn cùng tại Ai cập. Ngài còn giải cứu họ thoát cảnh tù tội do tội lỗi và sự chết gây nên và còn trao cho họ quyền tự do của con cái Thiên Chúa. Qua biến cố phục sinh Ngài còn mở rộng cửa trời đón nhận chúng ta vào chung hưởng hạnh phúc thiên đàng. Chúng ta luôn là Kitô hữu cho người khác. Mỗi người trong chúng ta được kêu gọi và trao cho một sứ mệnh, đó là loan truyền và đem ánh sáng đức tin đến cho người khác. Nhưng chính chúng ta trước tiên phải là nơi mà người khác có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa phải giống như ngọn lửa bùng cháy nơi chúng ta. Bài đọc của chúa nhật hôm nay giống như ánh sáng le lói cuối đường hầm, là những dấu hiệu báo trước về cuộc giải thoát mà chúng ta sẽ mừng trong đêm Phục sinh.

    Lm.  Phêrô Trần Minh Đức

    …………………………

    Suy Niệm 3: HÃY SÁM HỐI

    A. DẪN NHẬP

    Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.

    Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.

    Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ông chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Ngài.

    Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô :”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.


    B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA
    .

    + Bài đọc 1 : Xh 3,1-15.

    Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết  Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa  họ vào Đất Hứa.

    Khi ấy, Ông Maisen đang trốn trong sa mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ông trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà không bị cháy rụi. Ông đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ông muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên Chúa chỉ trả lời cho ông:”Ta là Đấng Hằng Hữu”.

     Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này :
    – Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
    – Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu, khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái : người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
    – Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
    – Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là” : ngược lại với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật .

    + Bài đọc 2 : 1Cr 10,1-6.10-12.

    Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ. Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa : mặc dầu được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.

    + Bài Tin mừng : Lc 13,1-9.

    Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn tin sốt dẻo : quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người : đứng trước những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.

    Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (Mc 11,13). Vậy là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc sống của chúng ta  chỉ là một thời gian được gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.

     C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

    Sám hối để được sống

    1. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý NGHĨA

     Hai sự kiện

    Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố dấy lên  một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát.

    Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa.

    1. Một ý nghĩa.

    Người Do thái thường cho rằng những thử thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu : anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng:”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra  là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.

     Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một sự kiện khác : 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật… Thay vì buộc tội Thiên Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.

    Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra : những người bị giết và bị đè chết là do tội mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán :”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe : nếu các ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm do tội lỗi gây ra : một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người Galilê bị giết, Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám hối kẻo phải hư mất đời đời.


    II. DỤ NGÔN CÂY VẢ.

    1. Cây vả tại Palestine.

    Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người Do thái . Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ :

              – Người trồng cây vả là Tiên Chúa.
    – Cây vả là dân Do thái.
    – Người làm vườn là Đức Giêsu.

    1. Cây vả không sinh trái. 

    Thế giới này phải đi trên con đường tiến hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả thì để làm gì cho nó ăn hại đất ?

    Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.

    Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách ban thêm  nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá đền thờ Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng thực điều đó.

    1. Cơ may cuối cùng.

    Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.

    Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót, nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám hối, thì họ sẽ bị số phận như cây vả không trái.

    Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.

    III. CHÚNG TA PHẢI KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI. 

    1. Mọi người phải sám hối. 

    Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức, ngay chính, được mọi người kính trọng : những người biệt phái.

    Vậy người tốt cũng phải sám hối sao ?  Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra  họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.

    Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi sau đây : Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (McCarthy).

    1. Khác biệt giữa thánh thiện và tội lỗi

    Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn”, không ai là con người hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi.

    Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người, biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó là TU THÂN.

     Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm của vua Thành Thang :Nhật nhật tân, hựu nhật tân” : ngày ngày mới, lại ngày mới hơn.  Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ con người mình.

     Ông Trình Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói :”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” : mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.

      Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi cho nên tốt hơn.

    Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói:”Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.

     Truyện : Hối cải hay không.

    Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Âu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief ! Ăn trộm cừu ! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.

    Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù ! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự  nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng :”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi ! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.

    1. Tiêu cực và tích cực.

    Lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực : phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói :”Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17). 

    Sám hối hay hối cải không chỉ là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.

    Khi đọc dụ ngôn cây vả không sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn :”Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp của thập giá, để thông ban hoa trái  của ơn cứu độ cho người ta” (GLCG số 853 ; Lumen gentium đoạn 8).

    1. Hãy tìm đến với Chúa.

    Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ. Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý Ngài, hay đi sai đường hướng  Ngài đã chỉ định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta.

    Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết :

                        Thiên tính tuyệt vô âm,
                        Thương thương hà xứ tầm,
                         Phi cao diệc phi viễn,
                         Đó chi tại nhân tâm

                       Thiên Chúa vô hình vô tượng,
    Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra.
    Tuy cao mà vẫn không xa,
    Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.

    Chúa đã trồng chúng ta là cây vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình” !!!

    Nhưng cuộc đời chúng ta kéo dài được bao nhiêu ? Người ta thường nói :Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta :”Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10 ; Lc 3,9).

     

    Truyện : Cơ may cuối cùng.

    Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ :”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”.

    Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng : không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (Gm Arthur Tonne).

    Nếu có người đặt câu hỏi : Hiện nay trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệt hết đi ? Để giải đáp thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ :”Thưa ông, xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn  cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy vọng nó sẽ sinh trái để bõ công vun trồng.

    Đối với người thực tình sám hối thì không có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta hãy trao trọn cho Chúa để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.

    Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả tư tưởng ấy trong những dòng sau đây : Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa,  nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác động đến tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.

    Truyện : Cây vĩ cầm đáng giá.

    Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán :

    – Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây ? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao ?

    Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói :

    – Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây ?

    Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói :

    – Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000 ? Hai ngàn rồi ! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa !!!

    Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên :

    – Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị  cây vĩ cầm ấy !

    Lập tức có tiếng đáp lại :

    – Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.

    Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta  sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi  giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).

    Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt

    BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ

    VIDEO CLIPS

    THÔNG TIN ƠN GỌI

    Chúng tôi luôn hân hoan kính mời các bạn trẻ từ khắp nơi trên đất Việt đến chia sẻ đặc sủng của Hội Dòng chúng tôi. Tuy nhiên, vì đặc điểm của ơn gọi Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt, chúng tôi xin được đề ra một vài tiêu chuẩn để các bạn tiện tham khảo:

    • Các em có sức khỏe và tâm lý bình thường, thuộc gia đình đạo đức, được các Cha xứ giới thiệu hoặc công nhận.
    • Ứng Sinh phải qua buổi sơ tuyển về Giáo Lý và văn hoá.

    Địa chỉ liên lạc về ơn gọi:

    • Nhà Mẹ: 115 Lê Lợi - Lộc Thanh - TP. Bào Lộc - Lâm Đồng.
    • ĐT: 0263 3864730
    • Email: menthanhgiadalatvn@gmail.com