BÀI ĐỌC I: Cv 13, 14. 43-52
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa. Ðến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất”. Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng. Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
BÀI ĐỌC II: Kh 7, 9. 14b-17
Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế. Và một bô lão đã nói với tôi: “Ðây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Ðấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.
PHÚC ÂM: Ga 10, 27-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một”.
Suy Niệm 1 : CÁC MỤC TỬ LÀ HIỆN THÂN CỦA CHÚA GIÊSU MỤC TỬ TỐT LÀNH
Chủ đề của ngày Chúa nhật IV Phục sinh hôm nay đã được xác lập sẵn cho chúng ta: ‘Chúa Chiên Lành’, hay ‘Chúa là Mục Tử Tốt Lành’!
Càng ý nghĩa khi mới cách đây ba ngày, chúng ta đã có vị giáo hoàng mới kế nhiệm Đức Phan xi cô: Tân giáo hoàng Lê ô XIV.
Ngày hôm nay cũng được chọn làm Ngày Thế giới Cầu nguyện cho các Ơn gọi – ngầm hiểu cách đặc biệt là cầu nguyện cho ơn gọi mục tử…
Trong bối cảnh Mùa Phục sinh, Bài đọc 1 lấy từ sách Công vụ (13,14.43-52), cung cấp cho chúng ta một hình ảnh tiêu biểu về đoàn chiên và những mục tử. Đoàn chiên là đám đông ở Antiokia đến nghe các mục tử là Phaolô và Barnaba rao giảng. Họ tin và theo đạo. Điều này làm cho những người Do thái ghen tức. Phaolô và Barnaba bắt đầu chịu phiền phức bởi các âm mưu tẩy chay của những kẻ chống lại mình. Nhưng các ngài đầy hân hoan trong Thánh Thần… Từ câu chuyện này ta rút ra qui luật: Để làm việc cho Chúa, để qui tụ và chăm sóc đoàn chiên của Chúa, thì phải trả giá!
Nhưng Chúa sẽ liệu, nên dù hoàn cảnh nào, các mục tử và đoàn chiên của Chúa vẫn có thể cảm nhận niềm vui tín thác, như lời Đáp ca (Tv 99): “Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi”… Một lần nữa, chính Chúa là Mục tử Tốt lành trông nom chăm sóc Dân của Ngài! Các mục tử trong Giáo hội qua các thế kỷ cho đến tận cùng thời gian là những hiện thân của Chúa là vị Mục tử Tốt lành duy nhất.
Chúa Giêsu khẳng định rõ điều này trong Chương 10 Tin Mừng Gioan – chẳng hạn, Chúa nói: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (x. Ga 10,10-16.27-30). Bản văn này là một bài ca về Đức ái Mục tử mà mọi mục tử trong Giáo hội cần ‘treo lên’ như tấm gương để thường xuyên soi mình…
Để rồi, sau cuộc lữ hành hy vọng trên trần gian này, sẽ đến ngày hội vui trong ‘cảnh giới’ cánh chung. Đó là nơi mà đoàn chiên đông đảo từ mọi chủng tộc, mọi tiếng nói, và từ đau khổ lớn lao đến với Con Chiên, cầm lá thiên tuế… Con Chiên chăm sóc họ, đưa họ đến nguồn nước sự sống… Thiên Chúa sẽ lau sạch mọi giọt lệ trên mắt họ. Không còn đau khổ hay muộn phiền nữa. Chỉ có niềm vui! (x. Kh 7, 9.14b-17).
Thật thú vị, vị Mục tử Tốt lành duy nhất cũng chính là Con Chiên! Bởi vì Người đã chịu sát tế thay mạng cho con dân của Người! Và bởi vì Người tự đồng hoá với chiên đến mức ấy – không ai biết chiên và gần gũi với chiên cho bằng Con Chiên!
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
……………………………
Suy Niệm 2: CHÚA LÀ MỤC TỬ CHĂN DẮT TÔI
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Theo truyền thống, Giáo Hội dành ngày Chúa Nhật hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúng ta cùng hợp ý với Giáo Hội cầu xin Chúa ban nhiều thợ gặt, nhiều mục tử như lòng Chúa mong ước, là những người sống theo gương Chúa Giêsu, Người Mục Tử Nhân Lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Lời cầu nguyện này càng khẩn thiết hơn ngày hôm nay khi Giáo Hội đang đối diện với nhiều “vụ án” gây ra bởi các mục tử. Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các mục tử, nhưng còn cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cũng biết nâng đỡ và nêu gương sáng cho các ngài qua đời sống cầu nguyện và hi sinh trong bậc sống của chúng ta.
Lời Chúa trong ngày hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về thực tại cuộc sống của mình: Ai là người đang hướng dẫn cuộc đời của chúng ta? Người đang hướng dẫn chúng ta có phải là Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành hay là một thú vui trần thế nào? Thánh Vịnh Đáp Ca ca tụng rằng: “Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.” Điều này có xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không?
Trong bài đọc 1 hôm nay chúng ta chứng kiến hai thái độ khác nhau của những người nghe lời rao giảng của Thánh Phaolô và Banaba. Những người tin và để cho Chúa là Mục Tử của đời mình bằng cách trở nên môn đệ của Ngài thì được “tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13:52). Trong khi những “người khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời” (Cv 13:46) thì sống trong sự ghen tức. Họ luôn phản đối và nhục mạ những người rao giảng Lời Chúa (x. Cv 13:45). Họ cũng là những người xách động, xúi giục người khác để chống lại những việc tốt người khác làm (x. Cv 13:50). Điều này vẫn hay xảy ra trong đời sống thường ngày, trong giáo xứ hay cộng đoàn dòng tu. Mỗi ngày hay mỗi Chúa Nhật, chúng ta cùng nghe một sứ điệp từ Lời Chúa, nhưng thái độ đón nhận rất khác nhau. Một số người đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Ngài biến đổi cuộc đời của mình, và kết quả là những người đó luôn sống trong niềm vui và hoan lạc vì có Chúa. Còn một số khác thì nghe Lời Chúa với mục đích không phải để Lời Ngài biến đổi mà là để tìm lý do để chống đối, để ghen tức và để “kéo bè kéo phái”. Khi chúng ta không nghe Lời Chúa với mục đích thay đổi chính mình và giúp mình trở nên thánh thiện và sống đẹp lòng Chúa hơn, chúng ta đã làm cho Lời của Ngài trở nên vô nghĩa trong cuộc đời chúng ta.
Điểm thứ hai đáng để chúng ta suy gẫm trong bài đọc 1 là sự cứng lòng tin của những người xem mình là “dân được tuyển chọn” và khước từ ơn cứu độ; do đó Thánh Phaolô và Banaba hướng việc giảng dạy của mình đến với dân ngoại. Các ngài khám phá ra điều Chúa muốn các ngài, đó là, “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13:47). Vì điều này, dân ngoại “vui mừng tôn vinh Lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy” (Cv 13:48-49). Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: Những người rao giảng Lời Chúa thường hay bị chống đối và loại trừ. Nhưng chính trong khi bị ngược đãi như thế, chúng ta nhận ra được ý định của Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta không nên bỏ cuộc khi bị chống đối, nhưng phải trở nên nhạy cảm hơn với tiếng Chúa mời gọi và trở nên sáng tạo hơn trong công việc tông đồ của chúng ta.
Bài đọc 2 kể cho chúng ta thị kiến về Con Chiên của thánh Gioan. Hình ảnh Con Chiên trong thị kiến này được trình bày với đầy vinh quang. Ngài được trình bày như một vị vua đang ngồi trên ngai, nhưng là một vị vua không cai trị với uy quyền, nhưng với sự hiền dịu và tình yêu của một Mục Tử Nhân Lành: “Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kk 13:17). Thánh Gioan đưa ra cho chúng ta một viễn cảnh của đoàn người thật đông đến tôn thờ Con Chiên. Họ là những người được Con Chiên hướng dẫn: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14b). Họ sẽ được gì? “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người ; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa” (Kh 7:15-16). Một cách đơn giản, đoạn này nói cho chúng ta về thực tế của việc chết đi trong Đức Kitô và sống lại trong vinh quang với Ngài. Điều này dựa trên định luật: “Đổ mồ hôi, sôi nước mắt để có cái ăn cái mặc.” Không có “con đường tắt” dẫn đến thành công. Cũng thế, không có “đường tắt” lên Thiên Đàng. Con đường lên Thiên Đàng là con đường thập giá của Chúa Giêsu, Người Mục Tử Nhân Lành.
Bài Tin Mừng hôm nay rất ngắn gọn, chỉ có 4 câu, nhưng chứa đựng nhiều sứ điệp cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cùng nhau phân tích từng câu để rút ra những bài học quý giá cho ngày sống của chúng ta.
Câu 27 – “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.” Ba hành động [động từ] quan trọng trong câu này là: nghe, biết và theo. Trong ba hành động này, hai hành động của chiên, đó là nghe và theo; còn một hành động là của Mục Tử, đó là biết. Điều này cho chúng ta hay rằng: Trong hành trình theo Chúa, điều Chúa đòi hỏi nơi chúng ta là thái độ lắng nghe và đi theo vì Ngài “biết” hết mọi sự, Ngài biết nơi Ngài sẽ dẫn chúng ta đến, Ngài biết những gì sẽ xảy ra cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cần gì. Liệu chúng ta có sẵn sàng để cho Ngài hướng dẫn chúng ta không? Tuy nhiên, khi chúng ta nói Chúa “biết,” chúng ta muốn ám chỉ điều gì? “Biết” theo Kinh Thánh không chỉ là sản phẩm của những kết luận được rút ra từ một quá trình tiếp thu của lý trí, nhưng là kết quả của một “kinh nghiệm,” một sự “gặp gỡ cá vị [giữa Thiên Chúa và tôi], và khi cái biết này đạt đến mức thập toàn, nó chính là tình yêu. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằng: trong hành trình theo Chúa của mình, chúng ta không luôn biết hay yêu Chúa, nhưng Chúa luôn yêu chúng ta, vì Ngài không bao giờ chối bỏ chính mình, Đấng là tình yêu (x. 1 Ga 4:8).
Câu 28 và 29 nói về việc Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta điều gì khi chúng ta đi theo Ngài theo sự thúc đẩy của Chúa Cha: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” Những lời trong câu này đưa chúng ta về với cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với người Do Thái về bánh hằng sống trong chương 6. Trong bối cảnh đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những người ăn thịt và uống máu Ngài. Chính những lời này đã làm cho những người Do Thái chống đối và một số môn đệ bỏ Ngài mà đi. Tuy nhiên, những ai đón nhận lời Ngài và ở lại với Ngài là những người được Chúa Cha lôi kéo và như vậy Chúa Giêsu không để cho họ “phải diệt vong” và bị “cướp mất khỏi tay Ngài.” Điều này nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm “mục tử” của mình: mục tử cho giáo xứ [giáo phận hoặc Giáo Hội], cha mẹ cho con cái, bạn bè cho nhau, thầy cô cho học sinh, sinh viên], hàng xóm cho nhau. Họ là những người Chúa gởi đến cho chúng ta để yêu thương và phục vụ. Liệu chúng ta có thể khẳng định như Chúa Giêsu rằng: những ai được Thiên Chúa gởi đến sống và gặp tôi, họ sẽ tìm thấy được niềm vui, ý nghĩa và sự sống mới trong Ngài và sẽ không hư mất đời đời không? Để làm được điều này, Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một điều kiện cần, đó là, “nên một với Thiên Chúa.”
Trong câu 30, Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài và Chúa Cha là một: “Tôi và Chúa Cha là một.” Theo Thánh Gioan, sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con chính là nền tảng của sự hiệp nhất của những người tin. Hơn nữa, trong khẳng định này, Chúa Giêsu ám chỉ Chúa Cha là Mục Tử Nhân Lành. Ngài là Mục Tử Nhân Lành vì Ngài đã thấy Chúa Cha thực hiện vai trò mục tử của Ngài với dân Israel. Tóm lại, trong câu 30, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Chúa muốn nói với chúng ta rằng: chúng ta chỉ có thể trở nên người mục tử nhân lành cho những người chúng ta được sai đến chỉ khi chúng ta “liên kết chính mình cách khăng khít với Chúa Giêsu, như Ngài “là một” với Chúa Cha. Khi chúng ta tách mình ra khỏi Ngài, chúng ta sẽ trở nên những người phân tán và huỷ diệt đoàn chiên hơn là quy tụ và mang lại sự sống cho đoàn chiên. Xin Chúa Giêsu giúp mỗi người chúng ta, đừng để bất cứ cái gì, dù tiền tài hay danh vọng, có thể “cướp” chúng ta khỏi tay Ngài.
Lm. Anthony, SDB.
………………………
Suy Niệm 3: VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Nghệ thuật Kitô giáo thuở xưa thường phác họa Đức Giêsu như Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Hình ảnh người chăn chiên đã được mô tả trong Cựu ước về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Người (Tv 22). Người Do thái cổ xưa là dân du mục, vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống chăn nuôi, du mục. Chính Đức Giêsu cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xưng mình là Chủ Chăn. Ngài có đàn chiên để chăn dắt. Đàn chiên của Ngài có những đặc tính như Ngài đã tuyên bố :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Đàn chiên của Ngài có những đặc tính khác với đàn chiên của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ. Những đặc tính đàn chiên của Ngài là : biết lắng nghe chủ chăn, nhận biết chủ chăn và bước theo chủ chăn.
Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, không trực tiếp điều khiển đoàn chiên dưới thế này, Ngài dùng các vị đại diện trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng, các Giám mục và các Linh mục mà hướng dẫn thay cho Ngài. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Vì thế, nếu chúng ta đã gọi các vị lãnh đạo trong Giáo hội là chủ chăn, chúng ta có trách nhiệm phải yêu mến, thành tâm lắng nghe sự hướng dẫn của các ngài để đến với Chúa, và nhờ đó, sẽ được dẫn tới cuộc sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 13,14.43-52.
Một khúc quanh quyết định cuộc đời tông đồ của thánh Phaolô. Trước tiên Phaolô và Barnabê loan báo Tin mừng cho người Do thái tại Antiochia miền Pysidia, nhưng rồi các ngài đã phải sớm chấm dứt việc rao giảng vì người Do thái tỏ ra “ghen tức” khi thấy một số đông dân ngoại cũng quan tâm đến Tin mừng (Cv 13,45).
Hai vị Tông đồ quyết định rời hội đường và dứt khoát đến với dân ngoại, không quên nhắc lại lời tiên tri về sứ mạng toàn cầu của Người Tôi Tớ đau khổ (Cv 13,47)
Do vậy, dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin mừng và tôn vinh Thiên Chúa. Lời Chúa được lan tràn ra khắp miền ấy.
+ Bài đọc 2 : Kh 7,9.14b-17.
Trong một cuộc thị kiến, thánh Gioan tông đồ đã thấy một đoàn người thật đông đảo. Họ là dân Thiên Chúa đã khải hoàn. Đoàn người đông đảo này :
– Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.
– Họ đứng trước ngai Con Chiên, Đấng đã cứu độ muôn dân qua cái chết của Ngài.
– Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
+ Bài Tin mừng : Ga 10, 27-30.
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một vị Mục tử, một vị Mục tử tuyệt vời. Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài bảo vệ và sẽ đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Vấn đề là : chúng ta có tin tưởng bước theo Ngài không ?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Bước theo vị Mục tử
I. ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ
- Bối cảnh.
Bài Tin mừng hôm nay rất ngắn, được trích ra từ cuộc tranh luận với người Do thái trong dịp Lễ Lều, nhân dịp kỷ niệm ngày thanh tẩy Đền thờ thời Maccabêô.
Đức Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ này. Tại đây xẩy ra cuộc tranh luận với người Do thái về vấn đề Người có phải là Đấng Thiên Sai không, và cuối cùng Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa bằng cách tuyên bố rằng : Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm (Lc 10,22-41).
Bài Tin mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Đức Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.
Trước khi trả lời dứt khoát Người đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do thái và “chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người.
Đối với người Do thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận, vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.
Như vậy, Đức Giêsu khẳng định Người là Mục tử và Người có đàn chiên để chăn dắt và Người đưa họ đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Người được.
- Hình ảnh người chăn chiên trong Cựu ước
Hình ảnh người chăn chiên không chỉ là một hình ảnh đẹp ở vùng thôn quê mà nó còn có ở trong Thánh Kinh. Trong khắp vùng Đông phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai cập :”Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78,52).
Đavít, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Belem (1Sm 17,34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Messia, Đavít mới, cũng được loan báo như một “Mục tử” : “Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavít, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).
Chăn nuôi súc vật từng bầy là nghề chính của dân Do thái. Các tổ phụ vĩ đại của họ từ Abraham, Isaác, Giacob, Maisen, Đavít… đều là mục tử.
Do đó, người Do thái đã diễn tả về Thiên Chúa như là một mục tử nhân hậu, luôn hết tình yêu thương đàn chiên (Tv 22; Gr 31,10; Ed 24,11-16). Và Đức Giêsu đã tự mạc khải như là một Mục tử tuyệt vời (Ga 10,11-14). Rồi đi xa hơn nữa, Người đã bầy tỏ cho nhân loại biết chính Người là Thiên Chúa (Ga 10,27-30).
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MỤC TỬ
Những đặc tính của vị Mục tử được tóm gọn trong câu nói của Đức Giêsu :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người : nghe, biết và theo.
- Chiên nghe tiếng người chủ chăn
Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến 2000 năm qua. Cảnh những người mục tử Bedouin mang những đàn chiên của họ trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ.
Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau từ 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên bị lạc. Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27) (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171).
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết :”Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17) hay “Đức tin nhờ nghe : Fides ex auditu (Ga 3,2).
- Chiên và chủ chiên biết nhau
Chiên rất thân thiện với chủ chăn. Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả. Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên. Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc. Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà. Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.
“Biết” trong Kinh Thánh, từ ngữ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thể xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,1).
Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Sự biết chí tình chí thiết này thực sự đã được thể hiện với hai thánh nữ Catarina và Têrêsa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh tâm Chúa Giêsu và trở thành tiến sĩ Hội thánh. Têrêsa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài Đồng, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm tiến sĩ Hội thánh tháng 08/1997 trong đại hội giới trẻ tại Paris.
- Chiên thì theo chủ chăn
Những người chăn bò thường đi sau đàn bò dùng roi quất lên mình bò để lùa chúng đi thành đàn với nhau. Đối với chiên thì hoàn toàn khác hẳn. Người mục tử luôn đi trước để hướng dẫn đàn chiên theo sau. Nếu người chăn chiên đi đàng sau đàn chiên giống như chăn bò, chiên sẽ chạy tán loạn vì không biết đường đi. Chúng muốn được hướng dẫn, được bảo vệ và che chở.
“Theo” đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do : đính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu mời gọi :”Hãy theo Ta”(Ga 1,42).
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.
III. TÂM TÌNH VỊ CHỦ CHĂN
- Tận hiến cho đoàn chiên
Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình. Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ đã sẵn sàng vác chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc.
Khi kẻ làm thuê trông coi con chiên, thì lũ cho sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát bản thân mình mà thôi. Người chủ tốt của đàn chiên không làm như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của chó sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Đức Giêsu, Chúa chiên nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đoàn chiên để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời. Hình ảnh cha thánh Damien, tông đồ người hủi, đã nói lên tình thần tận hiến cho đàn chiên, những con người phong cùi xấu số bị bỏ rơi.
- Chiến đấu bảo vệ đàn chiên
Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gờm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1Sm 17,34-35).
Đavít kể lại cho vua Saulê trước khi giết được tướng Goliat của quân Philitinh :”Hồi tôi tớ bệ hạ chăn chiên cho thân phụ, hễ sư tử hay gấu đực tha con chiên nào, tôi liền rượt bắt, đánh nó và cướp con chiên khỏi miệng nó. Nếu nó cự lại, tôi liền nắm lấy râu đánh và giết nó tức khắc. Tôi tớ bệ hạ đã giết sư tử cũng như gấu đực thì cũng sẽ thanh toán tên Philitinh không cắt bì này như vậy vì nó đã dám nhục mạ đạo quân của Thiên Chúa hằng sống”(1Sm 17tt).
Đavít đã nêu gương hy sinh, vật nhau với sư tử, với gấu đực, để cướp lại một con chiên bị đem đi. Đavít vì tha thiết với bầy chiên, nên không ngần ngại đánh nhau với sư tử và gấu đen để cướp lại chiên. Đức Giêsu khi nói :”Không ai cướp được chúng” đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người phải đương đầu trong cuộc khổ nạn, để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
- Không bỏ rơi đàn chiên
Người chăn chiên rất tha thiết với đàn chiên, lo lắng cho đàn chiên hết mình, không bao giờ để một con chiên nào bị bỏ rơi. Dụ ngôn con chiên lạc đã chứng tỏ điều đó :”Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”(Lc 15,4-7) ?
Chung quanh chúng ta hay ngay trong đời sống chúng ta có những hiện tượng rời bỏ hàng ngũ, bất trung thường xẩy ra, thì chúng ta nghĩ thế nào ? Thưa đó là những hiện tượng tự nhiên vì đó là mầu nhiệm của tự do. Nhưng một điều chúng ta cần biết đó là không khi nào Chúa ruồng bỏ ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chua. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại : dụ ngôn đứa con hoang đàng đã chứng tỏ điều đó (x. Lc 15).
- Ban cho chiên sự sống đời đời
Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi đảm bảo sự sống. Cũng vậy, những ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.
Sự sống này, một đàng không thể mất được, vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống bảo đảm. Đàng khác, cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa dẫn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ sự sống của đàn chiên nữa.
Trong một bài giảng, thánh Cyrillô thành Alexandria đã giải nghĩa câu “Ta ban cho chúng sự sống đời đời” như sau :”Đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Người, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Người, như lời Người phán :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời”(Ga 6,54).
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN CHIÊN
Chúa Giêsu không thể trực tiếp hướng dẫn mọi Kitô hữu, nhưng Người đã dùng các vị đại diện là hàng giáo phẩm và giáo sĩ để thay quyền Chúa mà hướng dẫn. Vì Chúa đã nói với các tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy”(Lc 10,16).
Chúng ta hãy đọc một đoạn mà công đồng Vatican II nói về các Linh mục :”Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ chăn theo phận vụ mình, các Linh mục nhân danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha. Để thi hành thừa tác vụ này cũng như các thừa tác vụ khác, các Linh mục được trao ban quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo hội. Trong việc kiến thiết này, các Linh mục phải theo gương Chúa Kitô mà đối xử rất nhân đạo với hết mọi người…(Sắc lệnh về Linh mục, số 4).
Chúng ta thường gọi những người lãnh đạo trong Giáo hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết : Chính Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo hội, là Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, công tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo hội.
Một lần nữa chúng ta hãy lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Qua câu Kinh Thánh này, chúng ta có thể khẳng định rằng vâng nghe các vị lãnh đạo trong Giáo hội là vâng nghe Chúa, và như vậy, đây là một nhiệm vụ không thể thiếu được, vì như người ta nói :
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt
…………………………………….
Suy Niệm 4: Sứ mạng mục tử
“Cha Peter Trần bắt đầu con đường ơn gọi với một chục trứng gà” – Đây là lời tựa đăng trên báo khi tôi nhận được bài sai về phục vụ tại giáo xứ thánh Ansgar, Itzehoe. Nhiều người cảm thấy hiếu kỳ bởi vì những chuyện ngộ nghĩnh như thế này họ chưa từng được nghe. Đối với tôi thì đây là thủ tục đầu tiên mỗi khi đổi xứ. Tôi phải viết một bản tóm tắt lý lịch để tự giới thiệu với mọi người. Hồi đó bố mẹ tôi sửng sốt bỡ ngỡ khi nghe nói tôi muốn đi tu, thủ tục nộp đơn thi vào chủng viện cũng chưa từng làm! Mẹ tôi mới đem một chục trứng gà tìm thầy giám thị Yến nhờ giúp đỡ. Sau đó tôi thi đậu, đến nay cũng đã 54 năm trôi qua rồi!
Ơn kêu gọi có lẽ là một khái niệm khá phức tạp. Ngay từ nhỏ tôi đã nghe nói: “Chúa kêu gọi thì nhiều nhưng chọn lựa thì ít.” Lúc đó tôi chẳng hiểu tại sao! Nhiều người đã đi tu hằng chục năm, bây giờ bề trên nói họ không có ơn kêu gọi là thế nào. Phải chăng họ lầm đường lạc lối? Cho đến nay tôi tin rằng, nếu như trong đầu của một đứa trẻ khơi dậy ước muốn đi tu thì chắc hẳn đã được Thiên Chúa kêu gọi. Ngài không trực tiếp hiện ra kêu gọi ai. Ngài kêu gọi qua những gương mẫu, những biến cố xảy ra chung quanh, qua những lời khuyên, những lời hay ý đẹp trong sách vở, … Một mặt, ơn kêu gọi là lời mời gọi của Chúa, mặt khác là sự đáp trả của con người. Con người có thể khám phá ra ơn gọi của mình khi biết lắng nghe, cảm nghiệm và cố gắng tìm hiểu Chúa mong muốn gì nơi tôi. Lời mời gọi của Thiên Chúa thường không mấy rõ ràng. Con người cần có nhiều thời gian để tìm hiểu. Sự lực chọn của Thiên Chúa sở dĩ ít bởi vì tất cả lệ thuộc vào lời xin vâng của con người giống như Đức Mẹ, sẵn sàng tiếp nhận sứ mạng, sẵn sàng hiến thân phục vụ, … Sứ mạng mục tử không chỉ dành riêng cho các linh mục tu sĩ nam nữ, nhưng còn là ơn gọi dành cho mỗi một Kitô hữu. Qua bí tích Rửa tội chúng ta đã được Thiên Chúa kêu gọi làm mục tử. Mục tử tốt lành là những người thật lòng yêu thương tôi, cùng đồng hành với tôi, cùng tôi chia vui sẻ buồn, … Mục tử tốt lành là những người giúp tôi khám phá vẻ muôn hình vạn trạng của cuộc sống thường nhật. Hình ảnh của một mục tử nhân lành giống như một đồng tiền luôn có hai mặt:
“Tôi biết chiên của tôi“ và mặt kia: “Chiên của tôi biết tôi“. Thiên Chúa đã yêu thương kêu gọi tôi, đồng thời Ngài cũng chờ đợi sự đáp trả của tôi. Khi tôi cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho tôi, thì bước kế tiếp dành cho tôi chính là sẵn sàng hiến thân phục vụ kẻ khác. Nhiều linh mục tu sĩ như chim giữa đường gẫy cánh, nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì đèn của họ đã cạn dầu, mong manh trước gió!
Thiên Chúa tạo dựng nên con người, ban cho mỗi người mỗi vẻ. Con nguời có bổn phận khám phá những khả năng thiên phú cho mình, làm cho tất cả đâm chồi nảy lộc, và rồi dùng nó để hỗ trợ kẻ khác. Có người được kêu gọi sống đời linh mục, có người được kêu gọi sống đời tận hiến trong nhà dòng, có người làm nhà chính trị, thương gia, thầy giáo, bác sĩ, … Phần đông được kêu gọi thành lập gia đình. Nhưng tất cả đều được quy tụ thành một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chúa chiên duy nhất là Đức Kitô.
Lẽ dĩ nhiên Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể tự mình làm tất cả nhưng Ngài không làm thế. Ngài đã trao ban danh dự cao quý này cho con người. Con người có tự do để lựa chọn và công tác vào công trình mở mang nước Chúa. Đức Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn và hình ảnh khác nhau để diễn tả. Chúng ta là những người thợ được kêu gọi để hoàn thành nhiều công việc khác nhau trong vườn nho của Thiên Chúa. Người thì được tín nhiệm trao trách nhiệm quản lý tài sản của Ngài. Người thì được trao ban sứ mạng loan báo Tin mừng. Mỗi người được thụ huấn và trang bị bởi sức mạnh từ trời cao, được nhận lãnh những ân huệ khác nhau của Chúa Thánh Thần và trao ban một nhiệm vụ thích hợp với khả năng của mình. Từ nhiều góc cạnh chúng ta sẽ thấy Giáo hội chỉ có một phẩm trật duy nhất. Đứng ở trên chỉ có Đức Kitô vì Ngài là thủ lãnh. Đối diện với Ngài chỉ có một hàng ngang dành cho chúng ta dù người đó là ai: trẻ con, đàn ông hay đàn bà, giám mục, linh mục hay tu sĩ, …
Lm. Phêrô Trần Minh Đức