BÀI ĐỌC I: Xh 12, 1-8. 11-14
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Đêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Đêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời”.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 11, 23-26
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
PHÚC ÂM: Ga 13, 1-15
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.
Suy Niệm 1
Lễ Vượt Qua là lễ trọng nhất của Do thái giáo, kỷ niệm biến cố vĩ đại bậc nhất trong lịch sử dân tộc Do thái: Họ được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, để lên đường đi về miền đất hứa mà Chúa đã ban cho tổ tiên họ. Lễ này được thiết lập vĩnh viễn, để muôn đời ghi nhớ việc tốt lành và kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân của Ngài (x. Xh 12,1-8.11-14).
Đối với chúng ta, các Kitô hữu, tính ‘vĩnh viễn’ của lễ Vượt Qua ấy được thể hiện trong cuộc Vượt Qua mới của Chúa Giêsu Kitô. Thánh vịnh 115 diễn tả điều này, với câu Đáp ca lấy từ Tân Ước: “Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô” (x. 1 Cr 10,16). “Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi ? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa”. Rõ ràng, biến cố Vượt Qua mới, đó là cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mừng trong mỗi cử hành Thánh Thể, cách riêng các ngày Chúa Nhật, và cách tột đỉnh trong Tam Nhật Vượt Qua hằng năm.
Bài Ðọc II (1Cr 11,23-26) là trình thuật tưởng niệm việc Chúa Giêsu thiết lập lễ Vượt Qua mới, ký kết Giao Ước mới. Mọi chuyện diễn ra trong Phòng Tiệc Ly, và hoàn thành trên Thập giá ở Đồi Canvê chiều hôm sau. Có thể ghi nhận: Chuyện ở Ai cập ngày xưa cho thấy rằng hai tiếng ‘vượt qua’ có nghĩa là ‘đi qua’ hay ‘bỏ qua’. Đức Chúa ‘đi qua’/ ‘bỏ qua’ các cửa nhà Do thái có bôi máu chiên, tha mạng cho các con đầu lòng của người Do thái, và chỉ ghé lại lấy mạng các con đầu lòng của người Ai cập! Như vậy, các con đầu lòng Do thái được ‘con chiên của lễ Vượt Qua’ chết thế mạng, được cứu.
Trong khi đó, Con Chiên của lễ Vượt Qua mới là chính Chúa Kitô. Người chết để thế mạng cho mọi người. Thiên Chúa không ‘đi qua’/ ‘bỏ qua’ Con của Ngài, nhưng thí mạng Người Con ấy để cứu chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa ‘đi qua’/ ‘bỏ qua’ chúng ta, tức tha mạng chúng ta, nhờ dấu máu Chúa Giêsu Kitô là Con Chiên của lễ Vượt Qua mới.
Tất cả là việc Thiên Chúa làm. Thiên Chúa ‘đi qua’, Thiên Chúa ‘bỏ qua’, Thiên Chúa tha, Thiên Chúa cứu. Và tất cả là do Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, đã yêu thương chúng ta đến cùng! (x. Ga 13,1). Thay vì tường thuật việc thiết lập Thánh Thể, Tin Mừng Gioan kể chuyện Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, để minh hoạ cách sống động sự thật “yêu thương đến cùng” này.
Tình yêu đến cùng ấy của Chúa, chúng ta không hiểu nổi đâu – chỉ có thể cảm nghiệm thôi. Có một điều thiết yếu mà chúng ta có thể và phải làm được, đó là việc cử hành sự kiện Chúa ‘đi qua’/ ‘bỏ qua’ như thế sẽ gọi mời chúng ta Vượt Qua – vượt qua chính mình, vượt qua sự đóng kín trái tim mình, để yêu thương và phục vụ anh chị em. Như di ngôn của Chúa: “Thầy đã làm gương để anh em cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
…………………………………….
Suy Niệm 2: HÃY SỐNG PHỤC VỤ VÀ YÊU THƯƠNG ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN CHÚA GIÊSU
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh. Trong ba ngày này, chúng ta sẽ tưởng niệm những biến cố quan trọng nhất trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô. Phụng vụ hôm nay tưởng nhớ hai biến cố quan trọng sau đây: Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ và Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Đây là hai hành động không thể tách rời của một tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu Kitô: đây là một tình yêu phục vụ và trung thành, một tình yêu tự hạ và luôn hiện diện với người mình yêu. Với ước nguyện đạt được tình yêu như thế, chúng ta cùng nhau để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta trong ngày đầu tiên của Tam Nhật Thánh.
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta những chỉ thị của Thiên Chúa mà dân Do Thái phải thực hiện để chuẩn bị cho bữa ăn Vượt Qua. Những chỉ thị này liên quan đến những điều sau:
Thứ nhất, ngày giờ cử hành bữa ăn: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Israel: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên” (Xh 12:1-4). Hành động chọn thời gian để cử hành bữa ăn Vượt Qua ám chỉ đến việc Thiên Chúa là chủ thời gian và Ngài là Đấng điều khiển mọi sự xảy ra trong thời gian, nhất là những gì liên quan đến việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Nói cụ thể hơn, qua việc chỉ thị cho dân Israel về thời gian cử hành bữa ăn Vượt Qua, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Ngài chắc chắn sẽ giải thoát chúng ta khỏi đau khổ, nhưng điều đó xảy ra khi nào là ý của Ngài chứ không phải ý của chúng ta.
Thứ hai, điều kiện của lễ vật: “Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Israel đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng” (Xh 12:5-8). Hình ảnh con chiên không tì ố được chọn làm lễ vật cho bữa ăn Vượt Qua, tượng trưng cho hình ảnh Chúa Giêsu, Con Chiên bị sát tế để máu của Ngài giải thoát chúng ta khỏi quyền lực thần chết.
Thứ ba, cách thức ăn: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa” (Xh 12:11). Hành động ăn vội vàng này nhắc nhở chúng ta về việc phải nhanh chóng quay trở về với Chúa để xin người giải thoát chúng ta khỏi nô lệ của tội lỗi.
Thứ tư, hiệu quả của máu chiên và việc thiết lập lễ Vượt Qua: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12:12-14). Chúng ta thấy rõ ở đây, chính máu chiên bôi trên cửa cứu dân Israel khỏi “tai ương tiêu diệt.” Máu chiên trong bữa ăn Vượt Qua là hình ảnh của Máu Thánh Chúa Giêsu đổ ra để tẩy rửa chúng ta sạch hết tội lỗi. Đây là Máu Thánh của Giao Ước mới mà Thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 2 hôm nay.
Bài đọc 2 được các học giả Kinh Thánh xem là bản văn “cổ nhất” trình bày cho chúng ta về việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Những lời được ghi lại bởi Thánh Phaolô trở thành lời truyền phép mà chúng ta thường nghe trong mỗi thánh lễ. Điểm quan trọng nhất trong bài đọc 2 mà chúng ta thường không để ý đến là câu mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “‘mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.’ Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cor 11: 25-26). Khi đọc những lời này, chúng ta thường nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta lập lại nghi thức bẻ bánh, tức là nghi thức trong phụng vụ Thánh Thể. Điều này không sai. Nhưng khi Chúa Giêsu nói những lời này, Ngài muốn chúng ta “làm việc này,” tức là phải đổ máu mình ra cho anh chị em mình: chồng hy sinh cho vợ, vợ hy sinh cho chồng, cha mẹ hy sinh cho con cái, con cái hy sinh cho cha mẹ và cho nhau, v.v. Chính qua những hy sinh nhỏ bé hằng ngày mà chúng ta “loan truyền Chúa đã chịu chết” cho chúng ta để rồi đến phiên mình, chúng ta cũng chết cho anh chị em của mình.
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào hành động rửa chân của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài. Chúng ta nhận ra lối viết quen thuộc của Thánh Gioan, đó là lối viết theo nghệ thuật “sân khấu Hy Lạp.” Trong vở kịch “Rửa Chân,” Chúa Giêsu là trung tâm và nhân vật chính. Vở kịch này gồm 4 “màn chính” sau:
Màn 1: Người dẫn nói về “giờ” của Chúa Giêsu: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1). Thánh Gioan cho chúng ta hay “giờ” của Chúa Giêsu là gì. Tuy nhiên, điểm quan trọng nhất trong “giờ” của Chúa Giêsu là Ngài tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài yêu chúng ta với một tình yêu không thay đổi, Ngài yêu chúng ta “đến cùng.” Tình yêu trung thành được Chúa Giêsu diễn tả trong “giờ” của Ngài là tình yêu mà ai trong chúng ta cũng khao khát và tìm kiếm trong một thế giới đang khuyến khích một lối “yêu thương mang tính ăn liền và thực dụng.” Trong “màn” thứ nhất này, chúng ta được mời gọi nhìn lại đời sống yêu thương của chúng ta: chúng ta đã thực sự “yêu thương những ai thuộc về chúng ta, và yêu thương họ đến cùng” như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta không?
Màn 2: Người dẫn kể về hành động rửa chân cho các môn đệ của Chúa Giêsu: Chúng ta thấy trong màn này, Giuđa được giới thiệu là người bị ma quỷ gieo vào lòng ý định nộp Chúa Giêsu. Điều này nói lên ý nghĩa rửa chân của Chúa Giêsu, đó là rửa chúng ta khỏi những điều mà ma quỷ đã gieo vào trong cuộc sống của chúng ta để chống lại Thiên Chúa qua việc nộp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu việc rửa chân trong thinh lặng. Hành vi rửa chân là hành vi của một người tôi tớ. Tuy nhiên, điểm chúng ta cần lưu ý trong hành động rửa chân của Chúa Giêsu là: “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” (Ga 13:4). Hành vi “cởi áo ngoài ra” nói lên sự tự hạ của Chúa Giêsu: Ngài cởi bỏ vinh quang và danh dự của Ngài; Ngài cởi bỏ những danh hiệu của Ngài để trở nên người tôi tớ của Thiên Chúa. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về lời dạy của Ngài về quyền bính: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành người phục vụ mọi người. Nói cách khác, qua hành vi “cởi áo ngoài ra,” Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cởi bỏ con người cũ của mình, cởi bỏ con người chạy theo “danh dự và vinh quang” của con người, cởi bỏ con người luôn muốn người khác phục vụ mình, để mặc lấy con người mới trong Chúa Giêsu, hầu trở nên tôi tớ phục vụ mọi người.
Màn 3: Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Phêrô: Đây là một điều khác thường, vì trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu là Người luôn đi bước trước để bắt đầu câu chuyện với người khác, nhưng trong trường hợp này, Phêrô lại là người bắt đầu câu chuyện bằng một câu hỏi. Thực ra, câu hỏi của Phêrô không phải là câu hỏi, nhưng là một diễn tả của thái độ kinh ngạc và “không hiểu” về hành động rửa chân các môn đệ của Chúa Giêsu. Điều này nói cho chúng ta rằng: Nhiều lần trong cuộc sống, cũng như Phêrô, chúng ta cũng ngạc nhiên về những điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta vì chúng vượt quá trí hiểu của chúng ta. Trong cuộc đối thoại với Phêrô, chúng ta thấy Phêrô rơi vào hai thái cực: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8) và “vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Đứng trước thái độ “quá khích” của Phêrô, Chúa Giêsu đưa ông về “vị trí trung dung”: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch” (Ga 13:10). Chỉ trong thái độ trung dung này mà Phêrô mới “được chung phần” với Chúa Giêsu (Ga 13:8). Chúng ta tự hỏi: “phần” mà Chúa Giêsu nói đến ở đây là gì? Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều này trong những lời sau: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3); và “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Như vậy, “phần” mà Chúa Giêsu nói đến chính là vinh quang Nước Trời.
Màn 4: Chúa Giêsu giải thích hành động rửa chân của Ngài: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy,’ là ‘Chúa,’ điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15). Thật rõ ràng, hành động rửa chân các môn đệ của Chúa Giêsu là để nêu gương cho họ [và cho chúng ta], để họ cũng rửa chân cho nhau. Chúng ta lặp lại điều này trong mỗi thánh lễ Rửa Chân vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh và chúng ta vui thích trong việc chứng kiến nghi thức này. Chúng ta quên mất điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: Hãy rửa chân cho người khác như Thầy rửa chân cho anh em. Rửa chân cho người khác thôi sao? Quá dễ! Thật vậy, nếu chúng ta không hiểu hết bối cảnh của việc rửa chân thì chúng ta thấy lời mời gọi của Chúa Giêsu quá dễ để thực hiện. Tuy nhiên, chúng ta phải biết rằng việc rửa chân của Chúa Giêsu cho các môn đệ không phải là chuyện dễ. Chúng ta thấy có hai tên được nêu lên trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là Giuđa Iscariốt và Phêrô. Đây không phải là điều ngẫu nhiên, nhưng là có chủ đích vì đây là tên của một người sẽ nộp Chúa Giêsu và người kia sẽ chối Chúa Giêsu [10 người còn lại sẽ bỏ Chúa Giêsu]. Trong bối cảnh này, chúng ta mới hiểu được chiều sâu của lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh chị em thấy, Thầy đã cúi xuống rửa chân cho ‘kẻ nộp thầy,’ cho kẻ ‘chối thầy,’ và cho những kẻ ‘bỏ thầy mà chạy,’ vậy anh chị em cũng học nơi Thầy mà rửa chân cho những người đã “nộp,” đã “chối,” và đã “bỏ” anh chị em.” Đây chính là ý nghĩa của phụng vụ hôm nay. Chúng ta được mời gọi để phục vụ, yêu thương, tha thứ và hiện diện với những người đã làm cho chúng ta đau khổ.
Lm. Anthony, SDB.
…………………………………
Suy Niệm 3: YÊU LÀ TRAO BAN
Thánh Gioan nói :”Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,10), Ngài là nguồn gốc tình yêu nên Ngài ban cho ta có tình yêu để yêu Ngài và yêu nhau. Chính vì thế Ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu :”Đây là giới răn của Thầy : các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).
Không ai có thể định nghĩa được tình yêu mà chỉ để cho con tim cảm nghiệm được nó. Hoặc có theo định nghĩa thần học thì yêu là “diffusivum sui boni” : thông ban sự tốt lành của mình cho người khác ; do đó, ta sẽ dễ hiểu được lời của thánh Gioan tông đồ :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16)
I.TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA
Thánh Gioan tông đồ khẳng định rằng Thiên Chúa là tình yêu nên mọi tình yêu phải bắt nguồn từ Ngài và cũng phải qui hướng về Ngài như một nguồn suối duy nhất. Nếu tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ Ngài thì chúng ta cũng phải yêu Ngài. Chính vì thế Ngài nói :”Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi và hãy yêu anh em như chính mình”(Mt 28,37.39). Ngoài ra, Chúa Giêsu còn nhắc nhở tình yêu này cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn :”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,24 ; 15,12).
Trong tuần thánh này và hôm nay chúng ta hãy suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong công cuộc cứu chuộc này. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan tông đồ ghi lại trong Tin Mừng :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người xuống trần gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).
II. TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ.
Nếu đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê, chúng ta mới thấy Đức Giêsu yêu thương chúng ta đến mức nào :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2,6-11).
Ta thử hỏi : vì lý do nào mà Chúa đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta ? Có lẽ không có câu trả lời nào khác mà chỉ có thể nói vì yêu thương chúng ta :”Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Ngoài ra, như người ta thường nói :”yêu nhau thì muốn kết hợp với nhau”. Đức Giêsu vì yêu chúng ta, không những Ngài đã hy sinh chết trên thập giá mà còn muốn ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế, cho nên Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể.
III. THÁNH THỂ, BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU
Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Corintô nói :”Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán :”Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con : các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23). Chúa Giêsu đã biến mình máu Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài chỉ có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không phải là sự hiện diện tượng trưng nhưng là sự hiện diện thực sự với mình máu, với cả nhân tính và thần tính của Ngài.
Động cơ nào đã thúc đẩy Đức Giêsu hành động như vậy ? Đó là tình yêu ! Đức Giêsu đã yêu chúng ta hết mức, Ngài đã tự vắt cạn kiệt con người của Ngài để phục vụ người khác, không còn gì để mà cho nữa mà chỉ còn cách là biến chính thịt máu mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Đặc tính của tình yêu là muốn cho đi :
Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
(ca dao)
Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu. Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn : hễ mất cái này thì còn cái khác. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.
Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị. Chân phước Têrêsa Calcutta nói :”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà”. Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời , lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26,26-28).
Truyện : Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.
Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ.
Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin.
Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa.
Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm.
Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn.
Trùng Nhĩ nuốt không trôi !
Bỗng Giới tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.
Trùng Nhĩ ăn ngon lành ! Ăn xong, khỏe khoắn liền hỏi Giới tử Thôi :
– Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế ?
Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa :
– Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng : nguời hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.
Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói :
– Ân này, biết bao giờ ta đáp được.
(Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324-325)
IV. BÀI HỌC CHO TA
Suy niệm về việc Chúa Giêsu lập Bí tich Thánh Thể để làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và muốn ở với chúng ta hằng ngày cho đến tận thế trong phép Thánh Thể, chúng ta có thể rút ra được những bài học cụ thể để áp dụng vào đời sống hằng ngày.
- Yêu là trao ban
Một trong các đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu :”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả” (Paul Bourget).
Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng :”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ” thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ do thánh nữ sáng tác :
Sống yêu đương chính là cho tất cả,
Trên đời này không đòi hỏi công lao.
Không tính toán, không kể cho là bao,
Vì đã yêu có khi nào suy tính.
(Têrêsa Hài đồng)
- Trao ban là hy sinh
Tục ngữ Tây phương nói :”Partir c’est mourir un peu” : ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một sự hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ, và đau khổ được coi như là chết trong lòng một ít. Vậy cho đi là cái gì đó phải lìa xa ta làm cho ta phải hy sinh , hay nói cách khác là chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi hỏi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao như Pierre l’Ermite nói :”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.
- Trao ban là phục vụ
Trao ban là cho đi, cho đi cái mình có và cái đó không còn thuộc về mình nữa mà thuộc về người khác. Như vậy, cho đi là chỉ nhằm phục vụ, phục vụ là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Chúng ta hãy nhìn lên ngọn nến lung linh trên bàn thờ. Cây nến phải hao mòn đi để trao ban ánh sáng và sức nóng cho con người. Nếu cây nến không chịu hao mòn đi thì không có ánh sáng mà không có ánh sáng thì không phục vụ cho con người được. Lúc đó cây nến chỉ còn là đồ trang hoàng chứ không cung cấp ánh sáng cho con người được.
- Trao ban và cô đơn
Yêu nhau thì người ta muốn gần nhau, muốn kết hợp với nhau để không bị cô đơn, nhiều khi phải bỏ tất cả để đi theo nhau. Theo nhau không phải chỉ chấp nhận một chủ thuyết, một chủ trương hay một khuynh hướng mà là muốn nối kết với nhau trong cuộc sống, bước theo nhau, coi người kia như lẽ sống của mình tựa như : “thuyền theo lái, gái theo chồng” (Tục ngữ) :
Yêu nhau chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn chữ tùy là theo.
(ca dao)
Saint-Exupéry nói :”Cho, tức là bắc một nhịp cầu trên sự cô đơn”. Tự bản thân, con người sống cô độc, khép kín vào bản ngã mình, giới hạn vào những kiến thức, rối ren trong những khó khăn của mình. Nếu xa cách tha nhân, hoặc không có ai tới nâng đỡ, thì lại càng cô đơn thêm.
Cho, tức là bắc cầu, là mở đường giao thông. Cho cái gì ? Không nhất thiết phải cho tiền bạc, của cải vật chất bởi vì ai cũng có cái gì để cho. Chúng ta có thể cho “đôi mắt” khi thấy một cụ già đang bối rối muốn băng qua đường, ta biết giúp đỡ cụ. Chúng ta có thể cho một lời nói để khích lệ hay chia buồn, một lời cám ơn, một lời khen ngợi . Chúng ta có thể cho nhau một nụ cười thông cảm, một cử chỉ thân thiện… Thử lập một danh sách xem tôi đã cho những gì và đã nhận được nhừng gì nơi người khác.
Chúa Giêsu đã trao ban cho ta chính con người của Ngài trong phép Thánh Thể, Ngài không bao giờ cô đơn vì Ngài luôn luôn biết cho đi, cho đi một cách quảng đại, cho đi không có giới hạn, cho đi mãi mãi. Nhưng chúng ta không đáp lại sự cho đi của Ngài, chúng ta thờ ơ trước sự trao ban vô vị lợi của Ngài, làm cho Ngài phải cô đơn. Để tránh sự cô đơn của chúng ta đối với Chúa và với tha nhân, ta hãy biết cho đi bằng cách phục vụ Chúa trong tha nhân, càng cho đi thì càng gần Chúa, càng sống thân mật với Ngài vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận” và nếu yêu mà chỉ nhận thì tình yêu sẽ chết.
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà lạt