BÀI ĐỌC I: Gr 17, 5-8
Ðây Chúa phán: “Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn.
BÀI ÐỌC II: 1 Cr 15, 12. 16-20
Anh em thân mến, nếu Ðức Kitô được rao giảng rằng Người đã từ cõi chết sống lại, thì làm sao có người trong anh em cho rằng không có sự sống lại từ cõi chết? Vì nếu kẻ chết không sống lại, Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ. Nhưng không, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc.
PHÚC ÂM: Lc 6, 17. 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế. “Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả”.
Suy Niệm 1: NGHÈO VÀ GIÀU – PHÚC VÀ KHỐN
Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS.
………………………………………………….
Suy Niệm 2: PHÚC CHO NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO CHÚA
Trong xã hội ngày hôm nay, người ta thường nói: Con cha cháu ông muốn gì được nấy. Hay chúng ta thường nghe ông bà ta nói: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa.” Chúng ta thường cậy dựa vào sức lực và ảnh hưởng của người khác, của những ngưới có quyền thế và địa vị trong xã hội [hoặc Giáo Hội], để tìm chút lợi danh cho mình và cho người thân. Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại những giá trị trong cuộc sống và trong xã hội, vì chúng ta là những môn đệ của Ngài, những người thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.
Ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 trình bày sự tương phản về cuộc sống của những người đặt niềm tin vào con người và những người đặt niềm tin vào Đức Chúa. Thật vậy, Đức Chúa, qua ngôn sứ Giêrêmia, khiển trách những kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!” (Gr 17:5). Họ sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người” (Gr 17:6). Còn những người “đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17:7-8). Hai loại người này sẽ được trình bày cách chi tiết và rõ ràng hơn trong bài Tin Mừng.
Còn trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói đến sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cor 15:16-17). Chính niềm tin vào sự phục sinh đã làm cho chúng ta hiểu rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc bởi cái chết, như Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cor 15:20). Sự kiện Đức Kitô trỗi dậy giúp chúng ta nhận ra rằng, những giá trị đích thật trong đời sống của chúng ta không nằm ở cuộc sống chóng qua ở trần thế này, nhưng nằm ở cuộc sống mai sau, vì khi chết chúng ta không thể mang theo tiền tài danh vọng xuống nấm mồ. Trong bối cảnh của sự phục sinh của Đức Kitô mà Thánh Phaolô trình bày, chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm nay cách rõ ràng hơn vì những lời hứa và hình phạt kèm theo nằm ở “thể tương lại,” tức là ở cuộc sống mai sau. Thật vậy, chỉ trong sự sống phục sinh chúng ta mới hiểu điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ về các mối phúc thật.
Bản phúc thật của Thánh Luca trong Tin Mừng hôm nay gồm có bốn mối phúc và bốn mối hoạ, thay vì cả tám mối phúc như được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (x. Mt 5:1-12). Qua các mối phúc và hoạ trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đảo lộn các giá trị mà người đời xem như là tiêu chuẩn của thành công hay thất bại để trở thành những giá trị đích thật của các môn đệ của Ngài. Nói cách khác, những môn đệ mà Chúa Giêsu gọi là có phúc thì thế gian cho là bất hạnh; còn những môn đệ mà Chúa Giêsu gọi là bất hạnh thì thế gian cho là hạnh phúc. Đề tài này tiếp nối đề tài “đáp lại tiếng Chúa Giêsu mời gọi” để trở nên môn đệ của Ngài trong Chúa Nhật tuần trước: Khi đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, những giá trị trong cuộc đời của chúng ta cũng bị thay đổi. Và Chúa Giêsu đã đưa ra bản giá trị mới này cho chúng ta trong các mối phúc và hoạ. Theo Deissmann, “Những mối phúc [và hoạ] được công bố trong môi trường đầy điện [và có thể tạo nên những cú điện giật chết người]. Chúng không phải là những vì sao thinh lặng, nhưng là những tia chớp của sét kèm theo tiếng sấm đầy kinh ngạc và sửng sốt.”
Trước khi phân tích chi tiết các mối phúc và hoạ, chúng ta cần lưu ý điều này: Như chúng ta đã trình bày ở trên, Chúa Giêsu muốn nói các mối phúc và họa này cho chính các môn đệ [nhóm 12] của Ngài, cho chính mỗi người chúng ta: “Khi ấy, Đức Giêsu ở trên núi xuống cùng với Nhóm Mười Hai, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, có nhiều môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng đến từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn. … Thấy vậy, Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói” (Lc 6:17-20). Vì vậy, để lời Chúa hôm nay trở nên “máu thịt” của mình, chúng ta hãy mở rộng con tim và đặt mình trước mặt Chúa Giêsu để nghe Ngài nói những lời đầy thách đố, nhưng cũng đầy an ủi này cho mỗi người chúng ta.
Mối phúc thứ nhất: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20). Khi thế gian xem những người giàu có về của cải vật chất là có phúc thì Chúa Giêsu lại nói chỉ những người nghèo mới có phúc. Cái nghèo mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không nhất thiết là cái nghèo về vật chất, nhưng là “thái độ tự do, không làm nô lệ cho vật chất” để chỉ sở hữu mình Thiên Chúa làm gia nghiệp. Chúng ta đã từng chứng kiến việc có những người giàu có về của cải vật chất, nhưng họ sống nghèo vì họ sử dụng của cải của mình để chia sẻ và chuẩn bị cho mình một kho tàng ở trên trời. Ngược lại, có những người nghèo về của cải vật chất, nhưng “giàu có” trước mặt Chúa vì họ chỉ lo đi tìm của cải vật chất để thoả mãn ước mơ có được đời sống tiện nghi để rồi quên mất Chúa.
Mối hoạ thứ nhất: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6:24). Như chúng ta đã trình bày, khi thế gian xem giàu có là một ơn phúc, thì Chúa Giêsu lại xem giàu có là một mối hoạ. Tại sao giàu có là mối hoạ? Vì nó dễ dàng làm cho con người ngủ yên trong phần an ủi chóng qua của mình ở đời này mà quên đi hoặc dửng dưng trước những nhu cầu của anh chị em xung quanh. Có câu nói trong đời rằng: Giàu có dễ dàng làm cho chúng ta ngăn cách với người nghèo bằng những bức tường thật cao, những cánh cổng khoá thật chặt. Hơn nữa, giàu có dễ dàng làm cho con người sử dụng tất cả năng lực mình có để càng trở nên giàu có hơn trước mặt người đời mà không lo đến việc chuẩn bị cho mình một kho tàng ở trên trời. Chúng ta hãy nhớ rằng: Những gì chúng ta có được về của cải vật chất chỉ là những giá trị của thế gian. Khi sự chết ập đến, kho tàng trần thế sẽ để lại cho người khác. Những giá trị của người môn đệ của Chúa Giêsu là: “Hãy đi, bán hết của cải anh [chị] có, cho người nghèo, tích luỹ cho mình một kho tàng ở trên trời, rồi đến và theo Thầy” (x. Mt 19:21). Một lối sống thật thanh thoát với của cải vật chất!
Mối phúc thứ hai: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6:21). Mối phúc này đi theo mối phúc về nghèo khó. Thường những người nghèo khó thì thiếu thốn cái ăn cái mặc nên dễ dàng phải chịu đói chịu khát. Khi thế gian xem những người luôn no đầy là có phúc thì Chúa Giêsu nói phúc cho các môn đệ khi họ phải chịu đói khổ. Tuy nhiên, cái đói mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không phải là cái đói đơn giản mang tính vật chất, mà là cái đói và cái khát lời Chúa và sự công chính của Ngài. Chỉ những người đói khát lời Chúa và sự công chính của Ngài mới luôn hướng lòng về Ngài và xem Ngài là tất cả của cuộc đời mình. Khi làm như thế, họ sẽ được Thiên Chúa cho no lòng với tình yêu, sự tha thứ, ủi an và chăm sóc của Ngài.
Mối hoạ thứ hai: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:25). Những người đang no nê ở đây là những người đang tận hưởng những của cải vật chất như mối hoạ thứ nhất nói đến. Họ được no nê về của cải vật chất, nhưng đói khát những giá trị thiêng liêng. Chúng ta chứng kiến trong cuộc sống thường ngày của chúng ta thực tại này là có nhiều người và nhiều gia đình rất no đủ về vật chất, nhưng họ lại rất đói về tình thương, về cảm thông và tha thứ.
Mối phúc thứ ba: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6:21). Khi thế gian gọi những người luôn vui cười là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại nói nhưng ai đang phải khóc là được phúc. Tại sao Chúa Giêsu lại nói những người than khóc là có phúc? Theo nghĩa Kinh Thánh, dân Chúa than khóc khi họ phạm tội và cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, những người than khóc là có phúc vì họ than khóc cho tội của mình và của người khác. Đây là sự than khóc của những tâm hồn thống hối ăn năn, của những người khóc cho sự bất công trong xã hội. Nhưng than khóc đó sẽ được Chúa làm cho trở nên vui cười, niềm vui vì được tha thứ và yêu thương.
Mối hoạ thứ ba: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” (Lc 6:25). Những người sẽ gặp khốn cùng trong ngày sau hết là những người không bao giờ biết than khóc cho tội của mình và tội của người khác. Những người “cười” trên nỗi đau của đồng loại; những người hưởng lộc, ăn no mặc ấm trong khi anh chị em của mình đói khát và lạnh lẽo.
Mối phúc thứ tư: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:22-23). Khi thế gian cho rằng những người không bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả là hạnh phúc, thì Chúa Giêsu lại nói ngược lại. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xem như là tên xấu xa. Nhưng thường chúng ta bị đối xử như vậy là vì những việc làm vì mình. Điều đó không làm cho chúng ta được chúc phúc. Chúng ta được phúc chỉ khi chúng ta chịu những điều đó vì danh Chúa Giêsu. Nói cách cụ thể, chúng ta bị loại trừ, oán ghét, sỉ vả, và xem là tên xấu xa khi sống đời sống thật yêu thương, thật tha thứ, thật cảm thông, thật tốt. Tóm lại, là chúng ta sống một lối sống như Chúa Giêsu vậy. Chúng ta trở nên quá khác với những người thời đại là những người cảm thấy khó để yêu thương, để tha thứ, để cảm thông và sống thành thật.
Mối hoạ thứ tư: “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:26). Lối sống giả tạo và chạy theo vẻ hào nhoáng bên ngoài luôn là một hấp dẫn và cám dỗ của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta thường làm việc với động lực để được người khác biết đến và khen ngợi, ngay cả những việc “bác ái” đúng ra ngay cả tay phải cũng không biết việc tay trái làm, thì chúng ta lại dùng chúng để tìm vinh danh cho mình thay vì vinh danh cho Thiên Chúa.
Tóm lại, chủ đề chính của lời Chúa trong Chúa Nhật VI Thường Niên hôm nay được trình bày cách tuyệt diệu trong câu Thánh Vịnh Đáp ca: “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa.” Những người đặt niềm tin vào Chúa là những người để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời của mình theo cách Ngài muốn chứ không theo cách họ muốn; họ là những người trao cho Chúa trọn con tim của họ để Chúa đổ vào trong đó tình yêu vô điều kiện của Ngài; và cuối cùng, họ là những người luôn sẵn sàng tha thứ và cảm thông cho người phạm đến mình bảy mươi lần bảy trong một ngày.
Lm. Anthony, SDB.
…………………….
Suy Niệm 3: NHỮNG MỐI PHÚC THẬT
A. DẪN NHẬP
Con người khi vừa mới sinh ra đã “cất tiếng khóc chào đời” như thi sĩ Cao bá Quát đã nói :”Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì” ? Thật là một nghịch lý : sao không chào người ta bằng tiếng cười mà lại chào bằng tiếng khóc ? Vậy phải chăng “Đời là bể khổ” như Đức Phật dạy ? Chúng ta phải công nhận rằng cuộc sống ở trần gian có nhiều gian nan thử thách, nhiều đau khổ, do đó, con người mới đi tìm hạnh phúc. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói :”Bất cứ ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả những người thắt cổ tự tử”.
Trong các bài đọc hôm nay, Chúa đã vạch ra cho chúng ta con đường đi tìm hạnh phúc trong bài giảng về Hiến chương Nước Trời. Điều làm cho chúng ta khó hiểu và khó chấp nhận là điều nghịch lý trong Hiến chương đó. Nhưng chính cái nghịch lý ấy lại được giải quyết trong lãnh vực thiêng liêng bằng con mắt đức tin. Theo đó, người ta không thể dựa vào mình hay vào người khác mà đạt tới hạnh phúc thật mà chỉ có những người biết cậy dựa vào Chúa, biết đặt hết tin tưởng vào Ngài với lòng yêu mến và biết ơn.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu còn nói đến sự đối nghịch giữa giầu và nghèo. Sự giầu có và nghèo khó là tốt hay xấu ? Vậy hạnh phúc nằm ở trong sự giầu có hay khó nghèo ? Thực ra, hạnh phúc không nằm trong sự giầu có hay khó nghèo, mà nó chỉ là phương tiện để con người đạt tới hạnh phúc. Có đạt tới hạnh phúc hay không tùy ở thái độ của mỗi người, nghĩa là phải dùng các phương tiện ấy cho xứng đáng, cho đúng với thánh ý Thiên Chúa.
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Gr 17, 5-8.
Có lẽ một môn đệ của tiên tri Giêrêmia đã chen vào sách của thầy mình đoạn văn viết theo kiểu sách Khôn ngoan. Theo đó, tiên tri Giêrêmia đưa ra hai con đường cho người ta chọn : hạnh phúc hay bất hạnh.
Người chọn con đường hạnh phúc là người biết đặt tin tưởng nơi Chúa. Họ giống như cây bên bờ suối sinh hoa kết quả đúng mùa. Còn người chọn con đướng bất hạnh chỉ biết đặt tin tưởng nơi mình hay nơi người khác. Họ không khác gì cây trồng trong sa mạc hay trong vùng nước mặn, cằn cỗi, không sinh hoa kết quả gì.
Mỗi người phải chọn cho mình một hướng sống, và số phận vĩnh viễn sẽ tùy thộc vào sự lựa chọn ấy.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 15,12.16-20.
Việc phục sinh thân xác tạo nên nỗi khó khăn cho tín hữu Corintô. Có lẽ họ không nghi ngờ việc phục sinh của Đức Kitô, nhưng họ không tin sự phục sinh của Ngài sẽ dẫn đến sự phục sinh của thân xác chúng ta.
Nhưng với niềm tin, chúng ta quả quyết rằng chúng ta đã liên kết với Đức Kitô trong sự chết, thì chúng ta cũng liên đới với Ngài trong sự sống lại. Kitô giáo là niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, nguyên ủy phục sinh cho mỗi người chúng ta.
+ Bài Tin mừng : Lc 6,17-18. 20-26.
Các mối phúc do Đức Giêsu dạy, có lẽ là những câu sấm ngôn do tiên tri Isaia loan báo về việc Nước Chúa trị đến và ông thấy nơi những người nghèo khó, đói khát và đau khổ là những kẻ được hưởng ơn cứu độ. Thiên Chúa đã đến thật và đến một cách vô điều kiên.
Theo thánh Luca (khác với Matthêu) chỉ có 4 mối phúc và 4 mối họa với lời chúc dữ.
– Những người được chúc phúc là những kẻ nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, đang bách hại.
– Những người bị chúc dữ là những người đang giầu có, no đầy, vui cười, mọi người được tâng bốc.
Điều nên chú ý là : không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giầu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất này.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Muốn có hạnh phúc thật
I. MỌI NGƯỜI ĐỀU TÌM HẠNH PHÚC
Hạnh phúc ! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhất của mỗi người là hạnh phúc. Từ xa xưa, triết gia Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói :”Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm”. Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng:”Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử”.
Nói đến hạnh phúc là đề cập đến một vấn đề sống còn của con người vì đã là người đúng nghĩa thì không thể sống mà không tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Vì thế, cho dù có xử dụng phương tiện khác nhau bao nhiêu đi nữa thì mọi người đều nhằm tới cái đích duy nhất ấy, cho dù bất cứ cử động nhỏ nhặt nào của con người cũng không ngoài mục tiêu hướng tới cái đối tượng ấy. Vậy đã rõ hạnh phúc là động cơ thúc đẩy con người hành động, là hy vọng quyến rũ con người cố gắng phấn đấu.
Thế nhưng từ ngàn xưa cho đến ngày nay, đã có biết bao nhiêu thánh nhân, quân tử, hiền triết, bác học cố gắng tìm cách giải đáp cách thức để nhận ra đâu là hạnh phúc và làm thế nào để chiếm đoạt được nó. Nhưng kết quả chẳng đi đến đâu vì không đáp ứng nỗi khát vọng thâm sâu của con người.
Có những người đi tìm hạnh phúc mà không đạt được, phải chăng hướng đi của cuộc tìm kiếm không đúng ? Phải chăng phương cách của họ dùng không thích hợp nên không tới đích ? Họ đành phải chịu bó tay mặc dầu họ giầu sang phú quí không thiếu gì để tiến tới.
Truyện : Quốc vương Abdurahman III.
Quốc vương của Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giầu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ thứ 10. Lợc tức của nhà vua lên tới 336 triệu Mỹ kim. Nhà vua có 6321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ xinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị gía 3 tỷ Mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau:”Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những ngày tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi”.
Nhưng có những người sống trong những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, xem ra họ là những người đau khổ, thiếu mọi phương tiện để đạt tới hạnh phúc, nhưng trong thực tế, họ vẫn hạnh phúc, họ còn hạnh phúc hơn cả những người có đủ điều kiện để đạt tới hạnh phúc.
Đây là bằng chứng : Vào những năm cuối thế kỷ 20, viện Gallup đã làm một cuộc thăm dò 18 quốc gia để tìm xem quốc gia nào là đất nước hạnh phúc nhất. Kết quả thâu lượm được làm người ta phải ngạc nhiên ! Quốc gia hạnh phúc nhất là Iceland, một quốc gia nằm ở Bắc Cực với dân số 240.000 người, pha trộn giữa người Na uy và Đan mạch. Một số người thắc mắc rằng,”Làm thế nào những người Icelander lại có thể sống hạnh phúc được khi họ hoàn toàn bị cô lập trong giá lạnh của Bắc cực, chịu đựng 24 giờ đêm tối mỗi ngày vào mùa đông, và còn hơn thế nữa nhiều người còn phải sống tùy thuộc vào sự bấp bênh của kỹ nghệ đánh cá” ?
Một nhà xã hội học của Iceland đã giải thích như sau:”Văn hóa của chúng tôi được dệt bởi sự cực nhọc vất vả do thiên nhiên tạo ra. Đó là lý do tại sao người Icelander có một thái độ khoan dung đối với những vấn đề của cuộc sống”. Sự cô lập của quốc gia làm cho người Icelander có một cảm giác mãnh liệt về cộng đồng, một yếu tố có thể giúp giải thích tại sao họ có một đời sống trường thọ cao nhất trên thế giới. Trong khi đó Hoa kỳ chỉ được xếp vào hạng thứ 5 trong số 18 nước được thăm dò (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 85).
II. TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU ?
- Bài giảng về mối phúc
Theo Tin mừng của thánh Luca, sau khi xác định là người được Thiên Chúa sai đến như lời tiên tri Isaia (Lc 4,18-19), sau khi làm nhiều phép lạ tại Galilê và Capharnaum, và sau khi chọn 12 Tông đồ, Đức Giêsu đã cống bố Hiến chương Nước Trời, còn gọi là Bài giảng trên núi hay Bài giảng khai mạc.
Matthêu khởi đầu sứ điệp của Đức Giêsu bằng một bài giảng trên núi (5-6), Ngài là một Maisen mới công bố Hiến chương Nước Trời. Luca lại đặt khung cảnh giảng dạy “trên một khoảng đất trống”, chú trọng đến sự phổ cập của Tin mừng vừa tầm dân chúng. Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố:”Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc 6,20)…
- So sánh các mối phúc của Matthêu và Luca
Theo Matthêu, đây là Bài giảng trên núi, bao gồm 9 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “ nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm :”Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó…” Theo Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất bằng, trình bầy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời nguyền rủa, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giầu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
Hai bản văn này có sự khác nhau : Matthêu đã tâm linh hóa khi diễn tả :”Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó” ! Còn Luca thì nói về những người nghèo thực sự, đói khát thực sự, đau khổ thực sự trong thân xác.
- Nên theo bản văn nào ?
Linh mục Nguyễn văn Thái kể : Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giầu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn ? Ông trả lời :”Tôi rất thích bài của thánh Matthêu”. Tôi hỏi ông:”Còn thánh Luca thì sao” ? Ông trả lời:”Không , tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giầu”. Khi thánh Matthêu nói :”Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo”(Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giầu. Còn Luca thì nói:”Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó”(Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng Nước Trời mà thôi, còn người giầu có bị nguyền rủa : “Khốn cho các ngươi là kẻ giầu có”.
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giầu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời:”Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giầu là ủng hộ viên của những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu ( Nguyễn văn Thái, op, cit, tr 86-87).
- Hiểu thế nào về giầu nghèo ?
Bài đọc 1 so sánh hai thái độ của con người đối với Thiên Chúa : Những người tin tưởng vào con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc, trong khi những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần suối nước. Bài Tin mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và mang lại cho họ niềm hy vọng hạnh phúc tương lai. Tin mừng không lên án người giầu chỉ vì họ giầu, nhưng vì họ không biết dùng của cải, để cho của cải thành chướng ngại vật chận đướng lối vào Nước Trời.
Khi Đức Giêsu nói:”Phúc cho những ai khó nghèo”, Ngài đã không chúc phúc cho sự đói khát và cùng khốn. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào con người sẽ thất vọng; những người đặt tín nhiệm vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Những người giầu thì có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, Những người nghèo có xu hướng tự nhiên quay về với Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải là điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn hơn và luôn bị đe dọa, nó cũng trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở thành những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đó là lý do Đức Giêsu nói:”Phúc cho những kẻ khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (McCarthy).
Chúng ta cần hiểu đúng từ “nghèo khó” ở đây. Theo thánh Luca, người nghèo khó đây là : người thiếu thốn của cải vật chất, người không có quyền lực cũng như ảnh hưởng, người bị bóc lột. Và vì không có của cải, sống bơ vơ, không được che chở nên họ chỉ còn biết đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Và vì thế, cuối cùng”người nghèo khó là người đặt trọn niềm tín thác vào Chúa”. Họ là những người được chúc phúc.
Với câu:”Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi”, chúng ta phải hiểu rằng Đức Giêsu đang ám chỉ đến những người thiếu thốn, người thấp cổ bé miệng, những người không ai che chở, vì thế họ chỉ còn biết tin cậy vào Chúa. Như thế, người nghèo khó được chúc phúc mà Đức Giêsu muốn nói, chính là những người nhận thức được rằng họ không thể tìm được hạnh phúc cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa. Chúa là tất cả đối với họ. Đối với họ của cải vật chất gần như chả là gì cả. Theo lời Đức Giêsu những người này thực sự là kẻ được chúc phúc. Vậy, để hiểu được lời Đức Giêsu :”Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó”, chúng ta cần đọc lại lời tuyên bố trên theo cách thức sau :”Phúc cho các ngươi là những kẻ nhận thức được rằng không thể tìm được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải thế gian, mà bằng cách đặt trọn niềm tín thác vào Chúa” (Mark Link).
III. MUỐN CÓ HẠNH PHÚC THẬT
- Phải có tinh thần siêu thoát
Chúa phán:”Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Nghèo chỉ những người không có của. Sự thiếu thốn này chỉ có thể là một sự kiện. Muốn nghèo mà được chúc phúc thì sự kiện đó phải trở thành một nhân đức. Và nghèo chỉ trở thành nhân đức khi nó kèm theo tinh thần cởi bỏ sự dính bén vì lòng mến Chúa, hay nói cách khác, là tinh thần siêu thoát. Mà hậu quả tinh thần siêu thoát, đó là tin cậy ở Chúa là Cha quan phòng. Người nghèo sống theo tinh thần nói trên, thì dễ dàng ước muốn những của siêu nhiên hơn.
Hiểu như vậy, thánh Augustino đã cắt nghĩa chữ “nghèo” này theo nghĩa khiêm nhường : Vì thường tình, lòng cởi bỏ mọi dính bén làm phát sinh lòng khiêm tốn, trong khi của cải thường phát sinh sự kiêu ngạo. Đức Mẹ cũng đã quan niệm như thế trong kinh Magnificat :”Chúa đã nâng người mọn hèn lên … người giầu có đã trở về tay không”.
Đức Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần : “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân… Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư… lo đạt đạo”(Luận ngữ 7,15 và 15,30-31).
Đức Phật không thể chịu nổi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô:”Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu”(Lc 9,58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài không phải giầu sang, quyền quí, mà là siêu thoát để truyền dạy chân lý không mệt.
Tiền của tự nó là tốt vì Chúa đã dựng nên tất cả cho con người tiêu dùng, nó chỉ trở nên xấu nếu con người không biết xử dụng nó, thay vì coi nó là đứa tôi tớ trung thành, lại biến nó thành ông chủ khắc nghiệt, thành thần Mammon quyền uy. Người ta thường ca tụng tiền của :
Đồng tiền
Là tiên là Phật,
Là sức bật của con người,
Là nụ cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cái cân công lý,
Là ý chí con buôn,
Là nỗi buồn của cán bộ…
Người có tiền của mà không có hạnh phúc vì không hiểu câu:”Hữu lộc bất khả hưởng tận”. Biết tận hưỡng cũng là một điều khó vì thần Mammon đã mê hoặc con người làm cho con người mất sáng suốt như người ta nói:”Hoàng kim hắc thế tâm nhân” : đồng tiền đổi trắng thay đen lòng người.
- Phải có tinh thần bác ái
Ngoài ra muốn tận hưởng hạnh phúc, con người còn phải biết cho đi. Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bóng xà phòng. Hạnh phúc đích thực không nằm trong của cải hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chỉ là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Vì thế, thánh Phaolô viết:”Cho đi thì có phúc hơn lãnh nhận”.
Thánh Grêgôriô Cả khuyên những người giầu hãy giúp đỡ người nghèo để được Chúa chúc phúc:”Khi cho những người nghèo những sự vật cần thiết, chúng ta không tỏ lòng quảng đại cá nhân đâu, nhưng chúng ta trả cho họ những gì là của họ. Đúng ra chúng ta đã làm bổn phận của đức công bằng, hơn là đã thực hiện một hành vi bác ái”(Giáo lý công giáo số 2445). Hãy giúp người rồi người sẽ giúp lại:”Nợ tang bồng vay trả trả vay” (Nguyễn công Trứ) :
Thương người như thể thương thân
Một mai rồi cũng đến lần ta đây.
- Tìm hạnh phúc thật nơi Chúa
Lời Chúa hôm nay đã trình bầy một nguyên tắc căn bản cho hạnh phúc thực sự mà con người đang tìm kiếm. Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có Thiên Chúa và không bước đi trong đường lối ngay chính của Ngài.
Vậy, theo lời Chúa dạy, thì hạnh phúc chính là tình trạng của con người dù biết mình nghèo, thiếu thốn, khổ đau mà vẫn cố gắng làm việc vui vẻ, trong sáng, chăm chỉ vì luôn tín thác vào sự quan phòng nhân ái của Chúa; là tình trạng của người dù có gặp gian nan thử thách vẫn kiên trung luôn ý thức mình là con Chúa.
Nói khác đi, điều làm cho con người dễ dàng đón nhận hạnh phúc Thiên đàng, chính là sự tự do của người nghèo khó : nghĩa là khi chịu đựng các thăng trầm bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống, người nghèo khó ý thức rằng chỉ có cuộc sống đời sau mới thỏa mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn con người. Và cả những ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu Chúa thì Ngài sẽ đền bù cho họ niềm hoan lạc đích thực đời này lẫn đời sau.
Tóm lại, hạnh phúc không gì khác là luôn có Chúa ở cùng vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được nỗi khát vọng sâu xa của con người. Và khi cảm nhận được tình yêu lớn lao của Ngài đổ tràn trong tâm hồn thì mọi sự khác đều trở nên vô nghĩa.
Truyện : Hoàng đế Napoléon.
Khi hoàng đế Napoléon, người hùng chinh phục cả Âu châu của Pháp, bị đầy sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi một chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả, và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi Hoàng đế:”Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất”? Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rải nói với người viết tiểu sử của ông :”Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xẩy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi Rước Lễ Lần Đầu”.
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giầu sang, và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 91)..
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em và với chính mình, như lời thánh Phaolô nói:”Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”
Một tác giả có viết:”Trong hạnh phúc có mầm đau khổ”. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu ?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Đức Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói sự thực, bị sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giầu lên khi chịu nghèo, no thỏa lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bị bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời .
Truyện vui : Giầu có.
Một chàng nghèo mạt rệp đến hỏi một vị linh mục :
– Con thấy giáo lý trong đạo chẳng thực tế chút nào. Trong khi ngày Tết đến, mọi người chúc cho nhau có nhiều Tài, Phúc, Lộc, Thọ, thì Chúa Giêsu dạy :”Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó”. Như vậy, theo Chúa thì được lợi ích gì ?
Vị Linh mục trả lời :
– Ngài sẽ làm cho anh có nhiều hơn.
Anh chàng hỏi lại :
– Nhiều hơn thế nào được ?
Linh mục bình tĩnh trả lời :
– Khi dạy anh ham muốn ít hơn.
Thực ra, nếu chỉ nghĩ tới hạnh phúc ngay ở trần gian này, thì Lời Chúa hôm nay khó hiểu và khó chấp nhận, vì người ta không thấy hạnh phúc ngay trước mắt. Nhưng với con mắt đức tin, chúng ta còn hy vọng vào đời sống mai hậu, nơi đó mới có hạnh phúc hoàn toàn. Cuộc sống ở trần gian này chỉ là một cuộc hành trình còn nhiều gian khổ, là cuộc chuẩn bị cho ngày vinh quang đó. Thánh vịnh sau đây đã diễn tả tư tưởng đó :
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
(Tv 126, 5-6)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm Gp. Đà Lạt
………………………………………..
Suy Niệm 4 : Là phúc hay là tai hoạ
Trong cuộc sống con người luôn luôn phải suy nghĩ lựa chọn và cuối cùng phải quyết định. Có những quyết định nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày: Hôm nay tôi chưng diện như thế nào? Hôm nay tôi ước được ăn món gì? Tối nay tôi sẽ theo dõi tiết mục nào trên đài truyền hình? Khi tốt nghiệp trung học mỗi người phải đối diện với một quyết định quan trọng hơn: Tôi nên đăng ký theo học ngành nào? Tôi nên tiếp tục ở với bố mẹ hay dọn ra ngoài ở riêng? Tôi muốn thay đổi nghề nghiệp hay đi tu nghiệp? Cuối cùng con người phải đối diện với một quyết định liên quan đến tương lai suốt đời mình: Tôi sẵn sàng sống hiến thân phục vụ hay lập gia đình! Nếu như lập gia đình thì ai sẽ là người bạn đường lý tưởng?
Phúc hay hoạ, lành hay dữ – Bài đọc cũng như Phúc âm ngày hôm nay xoay chuyển ở giữa hai thái cực này. Khốn thay cho kẻ hoàn toàn đặt tin tưởng ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Thiên Chúa. Phúc thay cho kẻ đặt niềm tin vào Thiên Chúa và chọn Ngài làm nơi nương tựa. Là phúc hay là tai hoạ – Chính tiên tri Giêrêmia đã có một cảm nghiệm sâu xa nơi thân xác và trong con tim của mình. Ông đã được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri, nhưng sau này ông đã từng một lần thú nhận: Thiên Chúa quyến rũ tôi và chính tôi đã để Ngài quyến rũ! Thiên Chúa mạnh hơn tôi nên Ngài đã thắng!
Ông đã mô tả hành trình của ông với Thiên Chúa qua những lời tự thú đầy cảm động phát xuất từ đáy lòng: Ơn gọi của ông giống như ngọn lửa mà Thiên Chúa khơi dậy trong thâm tâm ông. Ngọn lửa ấy đã bùng cháy đến độ ông không thể nào câm lặng. Ông luôn tự hỏi chính mình về ý nghĩa và sự vô nghĩa của sứ mạng. Ông luôn phải xác định lại ơn gọi của mình. Nhiều lúc ông muốn thoát ly, bỏ cuộc, nhưng dường như có một lực lượng vô hình luôn thôi thúc ông, khiến cho ông sống trong bồn chồn trăn trở, ăn không ngon, ngủ không yên! Sức mạnh này dồn ép, bắt buộc ông đứng lên phản kháng và nêu cao chính nghĩa của Thiên Chúa, là Đấng cũng không thể nào an nghỉ cho đến khi dân Israel nhận biết tình thương của Ngài.
Là phúc hay là tai hoạ – Cuộc đời của tiên tri Giêrêmia bị chao đảo giữa hai thái cực này như thế nào thì phong thổ của nước Israel cũng phản ảnh như thế: Sa mạc nắng cháy, đất đai khô cằn không người ở và cách đó không bao xa là nguồn nước, sông ngòi và ao hồ,… khiến cho khách lạ không thể nào tưởng tượng ra, đồng một lúc, hai cảnh tượng xung khắc xuất hiện trước mặt! Cảnh vật cây cỏ của nước Israel đã gây cảm hứng cho Giêrêmia. Chính vì thế trong lời mô tả của ông chứa đầy những hình ảnh này.
Là phúc hay là tai hoạ – Thoạt tiên có người nghĩ rằng: Vấn đề thật rõ ràng minh bạch, dễ dàng giống như trở bàn tay, nhưng thực tế rất trớ trêu. Cha ông chúng ta từng nói: „Ở hiền gặp lành“. Nói thì dễ nhưng sống thật là khó! Người công chính suốt đời giữ luật Chúa, đặt hết tin tưởng vào Ngài, nhiều lúc phải sống vất vả lầm than! Không những thế còn phải tận mắt chứng khiến cảnh tượng: Kẻ tội lỗi sống khoẻ mạnh an nhàn, được ăn uống phủ phê, lúc nào cũng sống nhởn nhơ vô tư! … Giống như lời thánh vịnh đã từng mô tả!
Cuộc sống người Kitô hữu không thoát khỏi những lúc gặp khó khăn đến độ nghi ngờ về ơn gọi của mình. Giống như thời tiết, sau những năm gió thuận mưa hoà sẽ có lúc trời hạn hán khiến cho suối nước cũng khô cạn! Nhưng nếu như chúng ta đưa đôi mắt hướng về Giêrêmia, tìm hiểu cuộc đời và ơn gọi của ông, chúng ta sẽ có một khám phá quan trọng: Cuộc đời con người đầy dẫy thăng trầm, vui buồn lẫn lộn, đầy cạm bẫy. Nếu như ai để mình sa chước cám dỗ thì kẻ ấy sẽ giống như bụi cây khô héo vì thiếu nước. Giêrêmia so sánh người tín hữu với một cây được trồng bên bờ suối. Rễ cây đâm sâu vì tiếp cận với suối nước, cành lá sẽ không uá tàn khi trời nắng hạn, …
Cuộc đời là phúc hay là tai hoạ, tất cả lệ thuộc vào quyết định của chúng ta. Thiên Chúa tự nguyện làm nguồn nước, làm nơi chúng ta có thể bám víu. Nhưng Ngài tôn trọng tự do của con người. Qua bí tích Rửa tội chúng ta được mời gọi làm những người quyết đoán. Chúng ta có quyền tin rằng, chúng ta sẽ tìm thấy một quê hương, một mái ấm và một nguồn sức sống từ Thiên Chúa.
Lm Phêrô Trần Minh Đức