Là một ngày lễ Công giáo, ngày 1 tháng Một theo truyền thống đã quy tụ nhiều luồng ý kiến khác nhau. Trong một thời gian dài, ngày này được gọi là “Lễ cắt bì của Chúa” vì vào ngày bát nhật của Lễ Giáng Sinh và theo luật Do Thái (St 17:12; Lc 2:21), Chúa Giêsu đã chịu phép cắt bì. Từ thời Abraham trở đi, phép cắt bì là dấu hiệu của sự hòa nhập vào giao ước của Thiên Chúa với Israel.
Bắt đầu từ ngày 1 tháng Một năm 1968, Đức Giáo hoàng Phaolô VI cũng chỉ định ngày 1 tháng Một là “Ngày Hòa bình Thế giới”, cuối cùng thậm chí còn giới thiệu một Thánh lễ cầu nguyện tùy chọn để tuân thủ.
Điều mà Giáo hội không tuân thủ vào ngày 1 tháng Một là sự khởi đầu của năm mới dân sự. Năm mới của Giáo hội bắt đầu vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng khi năm của Giáo hội quay trở lại thời điểm bắt đầu cuộc đời của Đức Kitô bằng cách đánh dấu sự chuẩn bị cho sự ra đời của Người. Theo truyền thống, năm mới của dân sự bắt đầu vào nhiều ngày khác nhau, gồm ngày 25 tháng Ba (ngày Lễ Truyền tin, đánh dấu sự thụ thai của Chúa Giêsu và chín tháng trước Lễ Giáng Sinh). Trong khi nhiều quốc gia Âu châu chuyển sang ngày 1 tháng Một vào thế kỷ 16, Anh và 13 thuộc địa vẫn giữ năm mới tập trung vào Đức Mẹ Maria có liên quan đến sự thụ thai của Chúa Giêsu cho đến năm 1752.
Kể từ cuộc Cải cách Lịch Roma năm 1969, Giáo hội coi ngày 1 tháng Một là ngày lễ trọng của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, đây không phải là một lễ kỷ niệm được thực hiện một cách máy móc. Trên thực tế, việc tôn vinh Đức Maria là mẹ của Thiên Chúa vào ngày 1 tháng Một là lễ kỷ niệm sớm nhất của ngày này trong Giáo hội Roma.
Việc gọi Đức Maria là “Theotokos”, “người mang Chúa” hoặc “mẹ của Thiên Chúa”, không chỉ đơn thuần là một cách hay để nêu ra điều hiển nhiên. Danh hiệu này gắn liền với những cuộc tranh luận về Kitô học của Giáo hội sơ khai.
Nestorius là một kẻ dị giáo vào thế kỷ thứ năm. Ông đã từ chối danh hiệu “Theotokos” vì Christology cơ bản (và thiếu sót) của ông. Thần học Công giáo dạy rằng Chúa Giêsu Kitô là có hai bản tính — thần thánh và con người. Chúa Giê u hoàn toàn là Thiên Chúa và hoàn toàn là con người nhờ vào hai bản tính hoàn chỉnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là hai người; mà là một người.
Nestorius đã từ chối lời dạy đó. Theo ông, Đứa Maria là “mẹ của Chúa Giêsu” là người nhưng không phải là “mẹ của Thiên Chúa”.
Quan điểm của Nestorius là tâm thần phân liệt, biến Chúa Giêsu thành hai người — một thần thánh, một con người. Những người theo tà giáo đầu tiên theo quan điểm như vậy về cơ bản đã áp dụng các quan điểm tương tự như những người theo thuyết Ngộ đạo cổ đại, những người coi cơ thể là xấu xa và tìm cách thoát khỏi nó. Điểm chung gần như phổ biến xuyên suốt các tà giáo đầu tiên trong Kitô giáo là nỗ lực phủ nhận một số khía cạnh trong nhân tính của Chúa Giêsu, khiến nhân tính đó theo một cách nào đó trở nên không hoàn thiện hoặc không hoạt động. Nói một cách đơn giản, tất cả những viễn kiến đó đều dựa trên lời dạy rõ ràng của Kinh Thánh rằng Chúa Giêsu là “một người giống chúng ta về mọi mặt ngoại trừ tội lỗi” (Heb 2:17).
Bởi vì con trai của Maria thực sự là một người — “Thiên Chúa thật và người thật” như Công đồng Chalcedon sau này đã dạy — Người mà Maria sinh ra vừa là con người hoàn toàn vừa là thần thánh hoàn toàn. Và bởi vì Người là cả hai, nên bà là “Mẹ của Thiên Chúa”.
“Bản chất”, xét cho cùng, là một khái niệm trừu tượng. Bởi vì tất cả chúng ta đều có “bản chất” con người, chúng ta chia sẻ những đặc điểm chung của nhân loại, ví dụ, chịu sự chi phối của không gian và thời gian, là thể xác và tinh thần, và kể từ khi Sa ngã, bị suy yếu do tội lỗi. Nhưng chúng ta không gặp những “bản chất” trừu tượng chạy trên phố. Chúng ta chỉ gặp những con người thực sự có bản chất con người (vì không có con người nào không có bản chất). Vậy tại sao chúng ta lại nghĩ Maria sinh ra một sự trừu tượng?
Nếu Chúa Giêsu không phải là Thiên Chúa thật, thì Người không thể cứu chúng ta. Người là người thầy thông thái, một hình mẫu hiền lành, và có thể là một người tốt toàn diện, nhưng Người không phải là Thiên Chúa và nếu không phải, thì Người cũng bất lực như mọi con người khác trong việc cứu chúng ta.
Nếu Chúa Giêsu không phải là người thật, Người không thể cứu chúng ta. Người có thể là Thiên Chúa toàn năng, nhưng Người không thể thay thế, đại diện hoặc làm bất cứ điều gì nhân danh chúng ta. Mối quan hệ của Thiên Chúa với chúng ta sẽ hoàn toàn là bên ngoài. Nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta tham gia vào công cuộc cứu độ của mình.
Hoặc là con người Chúa Giêsu là “Thiên Chúa thật và con người thật” — và Maria là mẹ của người đó, hoặc Giáng Sinh là một lời nói dối.
Giáo lý Công giáo đã gắn kết với nhau về sự huyền điệu của “một người/hai bản tính” ngay từ đầu. Đó là lý do tại sao, ngay tại Công đồng Êphêsô vào năm 431 sau Công nguyên, các giáo phụ công đồng đã gọi Đức Mẹ mà chúng ta mừng kính ngày nay là: “Theotokos, Mẹ Thiên Chúa”.
Đây không chỉ là những cuộc tranh luận cổ xưa. Những gì chúng ta nói về Kitô học cũng thể hiện những gì chúng ta tin về nhân học con người, về con người chúng ta. Nền văn hóa hiện đại của chúng ta thường chia cắt con người khỏi bản chất con người, hạ thấp bản chất của chúng ta — vốn là một phần không thể thiếu của nhân tính chúng ta — thành một thứ được cho là “hạ nhân”, mang tính công cụ, dễ bị thao túng. Thần học Công giáo phản đối điều này vì những gì mà não trạng bán Ngộ đạo của chúng ta gọi là “hạ nhân” thực ra khá cá nhân, và vì con người nên được yêu thương chứ không phải bị lợi dụng, nên những cuộc tấn công vào bản chất con người khó có thể được coi là “yêu thương”. Chúng là những cuộc tấn công vào con người, xét một cách toàn diện. Thánh Gioan Phaolô II đã làm việc không mệt mỏi để nhấn mạnh chân lý đó.
Lễ hôm nay được thể hiện qua biểu tượng “The Nativity” thế kỷ 15, do Andrei Rublev cầu nguyện. Trong truyền thống Chính thống giáo, những hình ảnh thiêng liêng của biểu tượng không được “vẽ”, “làm” hoặc “tạo ra”, mà được viết và “cầu nguyện”, tin tưởng rằng nguồn cảm hứng của Thiên Chúa đang dẫn dắt bàn tay trần thế. Rublev đã cầu nguyện biểu tượng này cho Nhà thờ Chính thống giáo Truyền Tin ở Mặc Tư Khoa.
Nguồn:thanhlinh.net/